ThienNhien.Net – Con số 76.000 ha đất lâm nghiệp nằm trong diện tranh chấp, lấn chiếm năm 2011 theo thống kê chính thức của cơ quan quản lý nhà nước nhỏ hơn nhiều so với thực tế. Đây chỉ là phần nhỏ trong tảng băng chìm về tình trạng mâu thuẫn đất lâm nghiệp tại Việt Nam hiện nay, đó là thông tin được đưa ra trong Hội thảo “Mẫu thuẫn đất đai giữa công ty lâm nghiệp và người dân địa phương”, tổ chức sáng 27/7/2013 tại Hà Nội.
Trong báo cáo của mình, tổ chức Forest Trends phối hợp với Viện Tư vấn Phát triển (CODE) đã phân tích các mâu thuẫn trong sử dụng đất rừng giữa các công ty lâm nghiệp (hay còn gọi là lâm trường) và người dân địa phương.
Bình luận về con số 76.000 ha đất lâm nghiệp nằm trong diện tranh chấp, lấn chiếm năm 2001 theo thống kê của cơ quan quản lý nhà nước, báo cáo cho rằng: “Con số này chưa phản ánh được tính phức tạp về nguyên nhân mâu thuẫn, tác động và các cơ chế giải quyết tranh chấp hiện đang được áp dụng tại địa phương”.
Báo cáo cũng chỉ ra rằng mâu thuẫn đất đai giữa lâm trường và người dân đang diễn ra gay gắt tại một số địa phương, với 3 nguyên nhân chủ yếu như: Người dân thiếu đất canh tác đảm bảo sinh kế; Bất bình đẳng trong sử dụng đất và Việc phát triển mạnh mẽ mạng lưới thị trường nông sản ở vùng cao.
Báo cáo cũng nhấn mạnh rằng mâu thuẫn đất đai có tác động tiêu cực về các mặt KT-XH và môi trường bởi nó làm căng thẳng mối quan hệ giữa người dân, lâm trường, chính quyền địa phương và giữa người bên trong với người bên ngoài cộng đồng.
“Điều này khiến lãnh phí tiền bạc, thời gian, giảm hiệu quả sử dụng rừng và đặc biệt là mất cơ hội liên doanh liên kết, hạn chế giá trị gia tăng của nguồn gỗ khai thác…”, báo cáo viết.
Cơ chế giải quyết tranh chấp hiện thời bế tắc chủ yếu do thiếu cơ sở pháp lý, chưa có sự phân định ranh giới đất đai rõ ràng trên thực địa, chồng chéo trong cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và thiếu nguồn lực cần thiết để giải quyết tranh chấp.
Cuối cùng, báo cáo cũng đã đưa ra các kiến nghị chi tiết như: Cần thực hiện tổng điều tra đánh giá, rà soát lại một cách nghiêm túc, kỹ lưỡng, có sự tham gia của các bên về sử dụng đất lâm trường, đặc biệt là các lâm trường đang quản lý đất rừng sản xuất với mục đích trồng rừng tại các địa phương và thực trạng của mâu thuẫn đất đai giữa các bên liên quan;
Đánh giá, rà soát tình trạng thiếu đất sản xuất của các hộ dân và đánh giá nhu cầu đất canh tác tối thiểu của các hộ;
Bóc tách các phần diện tích đất tranh chấp, lấn chiếm trả lại cho chính quyền địa phương, làm cơ sở giao cho các hộ nhằm đảm bảo diện tích đất canh tác;
Khuyến khích cộng đồng phát triển các cơ chế nhằm hạn chế các giao dịch về đất đai dẫn tới việc người dân bị mất đất (ví dụ giao đất cho nhóm hộ, cho cộng đồng);
Tạo quĩ đất dự phòng cần thiết cho cộng đồng;
Đối với phần quĩ đất còn lại của lâm trường, tổ chức tiến hành thực hiện thuê đất trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng giữa các nhóm đối tượng, nhằm phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của đất và rừng;
“Nhà nước bố trí đủ nguồn lực để thực hiện các bước nêu trên”, báo cáo viết.
Quan trọng nhất, Forest Trends và CODE cho rằng: “Các thông tin liên quan đến thay đổi sử dụng đất và tài nguyên rừng (ví dụ như khoán, bảo vệ rừng) cần phải được công khai, minh bạch, đặc biệt tới người dân”.
Người dân tại chỗ cần được ưu tiên đối với nguồn tài nguyên đất, rừng trước khi thực hiện giao khoán cho các đối tượng bên ngoài cộng đồng….