ThienNhien.Net – Sau gần 15 năm thực thi Luật Khoáng sản, ngành khai khoáng của Việt Nam bên cạnh những đóng góp tích cực cho sự phát triển của nền kinh tế cũng đã bộc lộ không ít những yếu kém, hạn chế, khiến nguồn tài nguyên khoáng sản cạn kiệt, thất thoát, người dân mất đất sản xuất, ngân sách nhà nước thất thu, môi trường thì bị xâm hại nghiêm trọng.
Cấp phép càng nhiều, tổn thất càng lớn
Sở hữu trên 5000 điểm mỏ với hơn 60 loại khoáng sản khác nhau nên thật không khó lí giải vì sao ngành khai khoáng tại Việt Nam lại phát triển nhanh tới vậy. Số lượng các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này tăng trung bình hơn 21%/năm, đồng nghĩa với việc tăng nhanh lượng giấy phép được cấp.
Theo thống kê, chỉ trong vòng 3 năm từ 2005 đến 2008, các địa phương đã cấp hơn 3.880 giấy phép khai thác khoáng sản, nhiều gấp 10 lần so với số lượng giấy phép mà các bộ cấp trong 12 năm từ 1996 đến 2008. Điều đáng ngại là hoạt động cấp phép không theo quy hoạch, cấp phép vượt quy hoạch và chồng chéo quy hoạch vẫn diễn ra ở nhiều nơi trong khi đội ngũ và năng lực các cơ quan chuyên môn lại có hạn nên việc quản lí hoạt động khai khoáng trở nên khó kiểm soát. Đó là chưa kể tới thực trạng nhiều doanh nghiệp tuy không đủ năng lực, không có hồ sơ thiết kế mỏ, không làm báo cáo đánh giá tác động môi trường hoặc nếu có cũng chỉ là chiếu lệ… nhưng vẫn được cấp phép. Thậm chí không ít mỏ khoáng sản có trữ lượng lớn đã bị xé lẻ để tiện bề cho việc cấp phép ở địa phương. Cá biệt, một số trường hợp khai thác trái phép còn được “bảo kê” bởi các cán bộ cơ sở, khiến công tác xử lý trở nên dai dẳng, khó giải quyết.
Lãng phí tài nguyên
Hệ lụy từ việc cấp phép tràn lan kết hợp với các khâu khai thác sử dụng công nghệ cũ, khai thác thô, manh mún khiến nguồn tài nguyên khoáng sản bị tổn thất nghiêm trọng. Thống kê của Viện Tư vấn phát triển (CODE) cho thấy, tổn thất tài nguyên trong quá trình khai thác hiện ở mức rất cao, đặc biệt là tại nhiều mỏ do địa phương quản lý.
Theo đó, tổn thất khai thác than hầm lò lên tới 40 – 60%, khai thác apatit là 26 – 43%, quặng kim loại 15 – 30%, vật liệu xây dựng từ 15 – 20%… Đối với các mỏ vừa và nhỏ, sự thất thoát không chỉ dừng lại ở một vài chục phần trăm mà nguy cơ mất mỏ là rất nghiêm trọng. Điều này dễ thấy nhất trong hoạt động khai thác vàng khi mà độ thu hồi quặng vàng chỉ đạt 30 – 40%, số còn lại đều nằm tại bãi thải.
Ngân sách thất thu
Sự lãng phí tài nguyên trong hoạt động khai thác cộng với sự yếu kém trong công tác quản lí cùng những kẽ hở trong cơ chế giám sát cũng tất yếu khiến nguồn ngân sách nhà nước bị thất thu.
Trong khi tổng vốn đầu tư cho ngành khai thác khoáng sản chiếm vị trí cao so với nhiều ngành và lĩnh vực kinh tế thì hiệu quả đóng góp vào tăng trưởng GDP của ngành này lại chưa tương xứng. Bằng chứng là trong giai đoạn từ 2005 đến 2008, tổng vốn đầu tư cho ngành khai thác đứng vị trí thứ 5/18 ngành và lĩnh vực nhưng hiệu quả đóng góp cho nền kinh tế chỉ đứng thứ 8.
Hiện nay, nguồn thu trực tiếp từ việc khai khoáng vẫn dựa chủ yếu vào thuế tài nguyên khoáng sản. Doanh nghiệp tự kê khai sản lượng khoáng sản thực tế khai thác hàng năm và cơ quan chức năng sẽ lấy đó làm cơ sở cho việc tính thuế tài nguyên khoáng sản, ngoại trừ dầu khí có luật riêng. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều trường hợp báo cáo chưa đúng sản lượng khai thác gây thất thoát nguồn thu ngân sách. Việc duy trì phương thức tính thuế tài nguyên dựa theo hóa đơn xuất của doanh nghiệp cũng có thể dẫn tới tình trạng doanh nghiệp bắt tay với đối tác ghi giá trên hóa đơn thấp hơn so với giá thực tế nhằm trốn thuế và các loại phí liên quan.
Tại Điện Biên, một số doanh nghiệp còn mượn cớ “đang trong thời kì thiết kế mỏ” để trốn nghĩa vụ nộp thuế dù trước đó họ đã tiến hành khai thác từ lâu. Đây cũng là một trong những lí do khiến địa phương này chỉ thu được vỏn vẹn gần 3 tỉ đồng tiền thuế khai thác khoáng sản trong suốt 3 năm (2007 – 2010) dù có tới gần 90 điểm mỏ được cấp phép khai thác đủ các loại khoáng sản từ vàng cốm, vàng sa khoáng đến than, chì, kẽm, sắt, bauxit, antimon, đá vôi, cát sỏi…
Môi trường và dân sinh bị ảnh hưởng
Bất cập không chỉ dừng lại ở câu chuyện tổn thất tài nguyên và nguồn thu ngân sách mà hệ lụy từ việc cấp phép khai thác khoáng sản tràn lan cũng khiến nhiều hộ gia đình điêu đứng vì thiếu hoặc mất hẳn đất sản xuất. Phần lớn các mỏ khai thác tại một số địa phương chưa xây dựng bãi thải theo đúng quy định, gây bồi lấp dòng chảy, ruộng vườn; làm thu hẹp diện tích đất lâm nghiệp; gây hỏng cầu cống, đường sá… Một số ít doanh nghiệp tuy thực hiện đền bù hoặc đưa máy móc vào dọn dẹp đất thải nhưng nhiều vướng mắc vẫn chưa ngớt phát sinh, liên quan trực tiếp đến việc bồi thường và cải tạo đất.
Tuy nhiên, hậu quả tiêu cực về môi trường có lẽ vẫn là điều đáng lo ngại nhất bởi sẽ phải mất một nguồn kinh phí vô cùng lớn và trong một thời gian vô cùng dài thì mới mong khắc phục được một phần hậu quả. Không chỉ làm phát sinh các chất thải nguy hiểm, hoạt động khai thác khoáng sản trong nhiều trường hợp còn gây ô nhiễm không khí, nguồn nước; làm mất đa dạng sinh học; tàn phá rừng; sa mạc hóa đất đai; gây bồi lấp, sụt lún, phá vỡ cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử… Càng đáng lo hơn khi hầu hết hoạt động khai thác khoáng sản hiện tập trung chủ yếu ở các vùng núi và trung du khiến phạm vi tác động sâu rộng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến các vùng rừng và diện tích đất rừng xung quanh khu vực khai thác. Không ít những doanh nghiệp còn lợi dụng việc triển khai dự án để thọc sâu vào các khu vực cấm thuộc vườn quốc gia, khu bảo tồn nhằm tìm vàng và sa khoáng, gây bao hệ lụy khôn lường, điển hình là vụ khai thác vàng mới xảy ra tại VQG Ba Vì (Hà Nội); khai thác vàng trong vùng lõi VQG Pù Mát (Nghệ An), Khu Bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ (Bắc Kạn), Khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Huống (Nghệ An); khai thác thạch anh hồng ở VQG Chư Yang Sin (Đăk Lăk)…
Có thể nói, bên cạnh một số doanh nghiệp làm ăn khá nghiêm chỉnh thì còn tồn tại không ít những đơn vị chỉ biết chạy theo lợi nhuận mà bất chấp mọi hệ lụy có thể gây ra đối với môi trường và đời sống dân sinh. Hiện mỗi địa phương vẫn còn tồn tại hàng trăm điểm khai thác tự phát, nhỏ lẻ, khiến môi trường nơi nơi bị hủy hoại, tài nguyên thì cạn kiệt. Rất nhiều bằng chứng cho thấy, nơi nào giàu tài nguyên khoáng sản, nơi đó dễ phát sinh những mâu thuẫn, xung đột về lợi ích kinh tế và lợi ích môi trường.
Sớm giải quyết bài toán quản lí và quy hoạch
Trước thực trạng khai thác khoáng sản diễn ra tràn lan, kém hiệu quả, nhiều địa phương như Tuyên Quang, Nghệ An, Cao Bằng, Quảng Nam… mới đây đã phải ra quy định tạm dừng cấp phép khai thác khoáng sản tại một số điểm. Tuy nhiên, bấy nhiêu đó vẫn chưa đủ để lập lại trật tự khai thác tại nhiều điểm mỏ khác nếu công tác quản lí và cơ chế giám sát không sớm được xiết chặt.
Theo ý kiến của ông Nguyễn Đình Xuân, Phó giám đốc Vườn Quốc gia Lò Gò – Xa Mát tỉnh Tây Ninh, chúng ta cần có quy hoạch tổng thể về khai thác khoáng sản ở tầm quốc gia và một chiến lược khai thác khoáng sản dài hạn, có như vậy các địa phương sẽ biết họ được phép khai thác loại khoáng sản gì, với số lượng bao nhiêu, thời hạn được phép khai thác ra sao. Nhà nước giao quyền cho các địa phương khai thác nhưng yêu cầu phải có báo cáo đầy đủ, chi tiết về tính hiệu quả của việc này cũng như những ảnh hưởng về môi trường, dân sinh ở khu vực khai thác. Trên cơ sở đó, Chính phủ sẽ ra quyết định cho phép khai thác hay không khai thác.
Cũng theo ông Xuân, để giải quyết triệt để tình trạng chảy máu tài nguyên, gây thất thu cho ngân sách, Nhà nước cần phải đánh thuế ở mức cao các loại quặng xuất khẩu, đồng thời hạn chế hoặc không cấp phép cho những dự án dạng này.
Góp ý về cách tính thuế và phí, Viện Tư vấn phát triển cũng cho rằng, việc tính thuế tài nguyên cần thay đổi theo hướng dựa vào trữ lượng có thể khai thác được xét đến lợi thế về điều kiện khai thác mỏ và lợi thế thị trường tiêu thụ… chứ không đơn thuần dựa trên báo cáo sản lượng khai thác của doanh nghiệp. Đặc biệt, để hạn chế tình trạng nhập nhằng trong vấn đề thu chi, sử dụng nguồn thu từ tài nguyên khoáng sản, toàn bộ các thông tin liên quan đến hoạt động khoáng sản cần được công khai minh bạch. Theo đó, Việt Nam cần cân nhắc việc áp dụng Sáng kiến Minh bạch công nghiệp khai thác (EITI). Đây được xem là công cụ hữu ích giúp quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên, hiện đã có 31 quốc gia đăng kí thực hiện.
Song song với các giải pháp trên, các ngành chức năng Trung ương cũng cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan địa phương nhằm tiến hành sửa đổi, bổ sung các quy định luật liên quan nhằm phát huy tối đa các quy định về quản lí và xử phạt vi phạm môi trường trong khai thác khoáng sản, trong đó, đặc biệt chú ý tới nghĩa vụ bảo vệ, cải tạo, phục hồi môi trường của các tổ chức, cá nhân thăm dò, khai thác khoáng sản cũng như quyền lợi của địa phương và người dân nơi có khoáng sản được khai thác. Bên cạnh đó, cần tăng cường kiểm tra, rà soát các hoạt động khai thác khoáng sản trái phép; xóa bỏ triệt để cơ chế xin – cho thông qua đấu giá quyền khai thác khoáng sản ở cấp địa phương, đồng thời hạn chế việc chuyển nhượng dự án khai thác mỏ dưới mọi hình thức.