Thủy điện Xayaburi và trách nhiệm xã hội

ThienNhien.Net – Hôm nay, 19/4/2011 tại Vientian (Lào), Ủy ban Liên hiệp Ủy hội sông Mê Kông (MRC-JC) tổ chức phiên họp bất thường để bàn về đề xuất thủy điện Xayaburi của Lào. Trong thời gian vừa qua, trên công luận, nhiều tổ chức quốc tế, phi chính phủ và giới hoạt động môi trường đã bày tỏ bức xúc, quan ngại về “lợi bất cập hại” của dự án này. Việc phía Lào vẫn cho tổ chức xúc tiến làm đường, lán trại, đền bù di chuyển người dân ở khu vực đập Xayaburi  trước phiên họp của JC, phần nào thể hiện thái độ cương quyết, bất chấp ý kiến của công luận và tham vấn  ý kiến của các nước thành viên trong MRC. Từng có nhiều dịp bày tỏ quan điểm của mình về thủy điện Xayaburi, trong bài viết hôm nay, chúng tôi chỉ muốn nhấn mạnh đến khía cạnh trách nhiệm xã hội trong việc triển khai dự án này.

Trách nhiệm xã hội nhìn từ dự án Xayaburi

Có nhiều học giả từng tranh luận về quan điểm của nhà kinh tế Milton Friedman, người đoạt giải thưởng Nobel, về quan điểm lợi ích kinh tế trong mọi hành động. Song về sau, khi phân tích sâu hơn, các học giả vẫn phân loại trách nhiệm xã hội thành ba loại: trách nhiệm xã hội về kinh tế (Economic social responsibility), trách nhiệm xã hội về luật pháp (Legal social responsibility), và trách nhiệm xã hội về đạo đức (Ethical social responsibility).

Thuyết các bên liên quan (Stakeholder theory) cũng hướng mọi hành động của con người phải phục vụ lợi ích của nhiều bên đóng góp vào chuỗi giá trị của xã hội, chứ không phải chỉ hướng về lợi ích của nhà đầu tư hay một đất nước đầu tư.

Như vậy, khi quyết dấn thân vào dự án thủy điện Xayaburi, ba loại trách nhiệm xã hội  kể trên cần được Lào và các bên liên quan cân nhắc. Bởi lẽ, các nước cùng tham gia ký Hiệp định Mê Kông trên tinh thần hợp tác với mục đích là phát triển bền vững vì quyền lợi chung của cả lưu vực. Trong khi đó, khi con người tác động vào tự nhiên, con người không bao giờ được tất cả, và bài toán “trade off -đánh đổi” này cần phải được tính toán dựa trên cân nhắc lợi ích và mất mát của tất cả các nước trong lưu vực.

Như vậy, nếu chiến lược phát triển dài hạn trong cả khu vực được nhiều hơn mất trên cơ sở chứng minh bằng các luận chứng khoa học, công khai, sòng phẳng, đánh giá được định lượng theo tiêu chuẩn quốc tế thì Việt Nam dù có bị thiệt thòi do địa lý nằm ở hạ lưu vực cũng dễ chấp nhận hơn. Đấy chính là quan điểm đạo đức chia sẻ (ethics of care) mà nhiều học giả trên thế giới đang hướng đến.

Nhìn nhận, đánh giá về đập thủy điện Xayaburi cũng không thể ra ngoài quy luật nói trên.

Dòng Mê Kông (Ảnh: ThienNhien.Net)

Tự cứu mình và không quá trông chờ vào tầm ảnh hưởng của MRC

 

Nhìn lại lịch sử của tổ chức Sông Mê Kông, dễ nhận thấy là tổ chức này đã trải qua nhiều thăng trầm do thời cuộc. Năm 1957 Ủy ban sông Mê Kông được Liên Hiệp Quốc thành lập, và đến năm 1978 Ủy ban Lâm thời Mê Kông ra đời (giai đoạn hoạt động rất hạn chế vai trò của tổ chức Mê Kông). Ngày 5/4/1995 tại Chiang Rai, Thái Lan, 4 quốc gia ven sông là Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam đã thỏa thuận ký kết Hiệp định hợp tác Mê Kông (MRC) – một hiệp định không còn dành quyền phủ quyết dự án cho các nước thành viên. Tuy nhiên, theo Quy chế Thông báo Tham vấn và Đồng thuận trước (PNPCA) vẫn có nguyên tắc cần tham vấn và có sự đồng thuận của các nước đối với dự án phát triển trên dòng chính sông Mê Kông.

Tuy nhiên, chúng ta cũng không quá kỳ vọng, trông chờ vào vai trò và tầm ảnh hưởng của MRC đối với sự phát triển của mỗi quốc gia trong lưu vực sông Mê Kông. MRC từ đầu năm 2011 đã chia thành 2 bộ phận hoạt động đóng ở hai nước thành viên: Vụ Hỗ trợ Kỹ thuật và Vụ Thực hiện Dự án chuyển về làm việc ở Pnompenh (Campuchia). Vụ Kế hoạch, Vụ Môi trường, Ban Hành chính Tài vụ, Ban Phát triển nguồn nhân  lực,  Ban Thông tin hợp tác quốc tế và Văn phòng CEO ở lại Vientian (Lào). Việc chia tách này làm cho kinh phí hoạt động của MRC tốn kém hơn và đặc biệt, về tổ chức, MRC yếu đi về thực lực trong quản trị cũng như tiếng nói trước cộng đồng quốc tế.

Dù chưa biết kết quả phiên họp hôm nay của MRC-JC, điều có thể dự đoán là Việt Nam sẽ đề nghị hoãn việc xây dựng đập thủy điện Xayaburi trong 10 năm để có điều kiện thu thập tài liệu cơ bản, nghiên cứu đầy đủ các tác động tích lũy xuyên biên giới, tham vấn cộng đồng vv… Quan điểm của Việt Nam nhiều khả năng được phía Campuchia ủng hộ cũng chỉ ở chừng mực nào đó, vì trong hệ thống 12 bậc thang thủy điện trên dòng chính hạ lưu sông Mê Kông có cả 2 đập thủy điện trên đất Campuchia là Sambor và Stung Treng.

Thương thảo về đập thủy điện Xayaburi, trước mắt là nhiệm vụ của Bộ Tài nguyên môi trường và Ủy ban sông Mê Kông Việt Nam. Việc mà các nhà khoa học Việt Nam cần làm là nghiên cứu trên cơ sở phân tích hệ thống, đánh giá tác động môi trường, kể cả đánh giá tác động về xã hội, sức khỏe và kinh tế. Các nghiên cứu này cần kết hợp với việc xác định dòng chẩy tối thiểu ở hạ lưu khi có và không có Xayaburi để làm đối chứng, bổ khuyết cho đánh giá môi trường chiến lược (SEA) của MRC.

Khi thích hợp, tiếng nói ở cấp Chính phủ về dự án thủy điện Xayaburi và các dự án dòng chính khác là vô cùng cần thiết. Các ngành chức năng cũng cần chủ động  xây dựng các chương trình, kế hoạch, giải pháp thích ứng, đối phó với các tác động từ thượng lưu vì cuộc sống của người dân ở Đồng bằng sông Cửu Long cả trước mắt và lâu dài.

Từ dự án Xayaburi, nhìn xa hơn, dễ nhận thấy là cơ chế thủy động lực học của sông Mê Kông đang thay đổi không phải chỉ do riêng 4 đập thủy điện đã xây dựng ở thượng nguồn sông Mê Kông thuộc Vân Nam, Trung Quốc. Dựa theo phúc trình của UNEP/AIT và những dữ kiện xác thực hiện có thì những kế hoạch, dự án và đập thủy điện hoặc thủy nông đã, đang và sẽ thực hiện ở hạ lưu sông Mê Kông thuộc Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam mới là những dự án đáng lo ngại vì nó có tiềm năng thay đổi cơ chế thủy học của sông Mê Kông và Đồng bằng sông Cửu Long  một cách mạnh mẽ và bất lợi hơn. Dự án đáng quan tâm nhất là dự án thủy nông Khong-Chi-Mun của Thái Lan. Nếu dự án này được thực hiện, đồng bằng sông Cửu Long có thể mất đi khoảng 6,32 tỉ m3 nước mỗi năm, trong đó có khoảng 3,92 tỉ m3 (300 m3/giây) trong 5 tháng mùa khô (từ tháng 12 đến tháng 4). Khối lượng nước này đủ để canh tác khoảng 325.000 ha lúa, hoặc để ngăn chặn sự xâm nhập của nước mặn vào đồng bằng sông Cửu Long vì nó chiếm khoảng 17% lưu lượng trong mùa khô của sông Tiền và sông Hậu (1.800 m3/giây)