ThienNhien.Net – Thành phố Hà Nội vừa chấp thuận chủ trương thí điểm công nghệ xử lý khói lò gạch nung tại các huyện Ba Vì (2 điểm) và Phúc Thọ (2 điểm) với thời gian thực hiện là 5 năm.
Theo yêu cầu của thành phố, trước ngày 20/12, Sở Xây Dựng phải báo cáo về tình hình sản xuất gạch ngói đất sét nung bằng lò thủ công tại các địa phương và triển khai thực hiện chương trình phát triển vật liệu không nung của Chính phủ.
Trên địa bàn Hà Nội hiện tồn tại khoảng 1.200 lò gạch thủ công các loại, chưa kể một số lò hoạt động theo mùa vụ với tổng sản lượng khoảng 800 triệu viên/năm. Một số nơi khai thác đất từ việc hạ cốt ruộng, đào kênh mương, hồ ao nuôi trồng thủy sản để làm gạch rất tùy tiện. Đặc biệt, các lò gạch thủ công đã gây ô nhiễm môi trường dẫn đến khiếu kiện và gây bức xúc trong nhân dân không được xử lý dứt điểm…
Nguyên nhân khiến tình trạng sản xuất gạch thủ công vẫn diễn ra “sôi động” theo Sở Xây Dựng là do tốc độ đô thị hóa cao nên nhu cầu vật liệu xây, ngói lợp rất lớn, trong khi đó sản lượng gạch tuynel mới chỉ đáp ứng được hơn một nửa nhu cầu xây dựng. Nguồn cung gạch ngói từ các tỉnh lân cận như Hà Nam, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hưng Yên cũng bị hạn chế do cước phí giao thông tăng cao đã đẩy giá đến mức thị trường khó chấp nhận.
Hiện tại, toàn thành phố mới có gần 10 cơ sở sản xuất gạch block xi măng – cốt liệu với công suất 62 triệu viên/năm; 4 cơ sở sản xuất công nghệ bê tông bọt nhẹ và bê tông khí nhưng sản lượng rất thấp – chỉ đạt 110 triệu viên; 1 cơ sở sản xuất gạch block puzolan công suất 2 triệu viên/năm; các loại vật liệu không nung khác như ngói không nung, tấm xây dựng cũng trong tình trạng sản lượng không cao. Ngoài ra, trên địa bàn còn có khoảng 40 cơ sở sản xuất nhỏ với công suất 1 dây chuyền từ 1-3 triệu viên/năm, giá thành tương đối rẻ nhưng chất lượng lại thấp, chủ yếu sử dụng vào việc xây dựng tường rào, chuồng trại và nhà thấp tầng.
Để đạt mục tiêu đến 2015 sản lượng vật liệu xây không nung (VLXKN) chiếm từ 20 – 25% và năm 2020 là 30 – 40%, Sở Xây Dựng kiến nghị UBND Thành phố Hà Nội áp dụng nhóm cơ chế chính sách đặc biệt quan trọng để định hướng thị trường, trong đó nhấn mạnh các vấn đề như: hạn chế sử dụng đất canh tác sản xuất gạch ngói đất sét nung, tăng cường bắt buộc sử dụng VLXKN vào công trình ngay từ khâu lập dự án đầu tư và thiết kế; tạo cơ chế chính sách khuyến khích ưu đãi đầu tư sản xuất VLXKN nói riêng và vật liệu xây dựng không nung nói chung; quy hoạch ngay vùng nguyên liệu, vùng sản xuất vật liệu trong đó có vật liệu không nung thay thế vật liệu nung truyền thống…