ThienNhien.Net – Phát triển hệ thống cảng biển trên cả nước theo một quy hoạch tổng thể và thống nhất nhằm bảo đảm thông qua được toàn bộ lượng hàng hóa xuất nhập khẩu và giao lưu giữa các vùng miền bằng đường biển, tính tới đủ sức cạnh tranh trong hoạt động cảng biển với các nước trong khu vực và trên thế giới là một trong những nội dung của Quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.
Quy hoạch này vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt với tổng kinh phí đầu tư đến năm 2020 khoảng 360-440 ngàn tỷ đồng.
Dự kiến lượng hàng thông qua toàn bộ hệ thống cảng biển tại thời điểm 2015 vào khoảng 500-600 triệu tấn/năm; năm 2020 vào khoảng 900-1.100 triệu tấn/năm và tăng lên đến 2.100 triệu tấn/năm vào giai đoạn 2020.
Để đạt được con số này, trước mắt phải tập trung xây dựng một số cảng nước sâu cho tàu trọng tải lớn đạt tiêu chuẩn quốc tế. Đặc biệt là cảng trung chuyển quốc tế Vân Phong-Khánh Hòa để tiếp nhận được tàu container sức chở 9.000-15.000 TEU (TEU là đơn vị đo của hàng hóa tương đương với một container tiêu chuẩn 20 ft (dài) × 8 ft (rộng) × 8,5 ft (cao) với khoảng 39 m³ thể tích).
Đồng thời, từ nay tới 2015 tập trung ưu tiên đầu tư các cảng: Trung chuyển quốc tế Vân Phong; khu bến Lạch Huyện cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng; khu bến của lọc hóa dầu Nghi Sơn…
Quy hoạch 6 nhóm và 3 loại cảng biển
Hiện nay, nước ta có 39 cảng biển phân bố tại các vùng miền khác nhau. Từ đặc điểm này có thể phân định cảng biển đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 theo vùng lãnh thổ, gồm 6 nhóm.
Cụ thể, nhóm 1: cảng biển phía Bắc từ Quảng Ninh tới Ninh Bình; nhóm 2: Bắc Trung Bộ từ Thanh Hóa đến Hà Tĩnh; nhóm 3: Trung Trung Bộ từ Quảng Bình đến Quảng Ngãi; nhóm 4: Nam Trung Bộ từ Bình Định đến Bình Thuận; nhóm 5: Đông Nam Bộ và nhóm 6: Đồng bằng sông Cửu Long.
Bên cạnh đó, các cảng biển cũng được thiết kế chuyên dụng cho những loại hàng hóa khác nhau. Dựa vào quy mô, chức năng nhiệm vụ của từng cảng, phân định thành 3 loại: cảng tổng hợp quốc gia, cảng địa phương (có phạm vi hấp dẫn và chức năng phục vụ chủ yếu trong phạm vi địa phương đó) và cảng chuyên dùng (phục vụ trực tiếp cho các cơ sở công nghiệp tập trung, hàng qua cảng có tính đặc thù chuyên biệt như dầu thô, than, quặng).
Cảng tổng hợp quốc gia là các cảng chính trong hệ thống cảng biển Việt Nam gồm cảng trung chuyển quốc tế (Vân Phong-Khánh Hòa), cảng cửa ngõ quốc tế (Hải Phòng, Bà Rịa-Vũng Tàu) và cảng đầu mối khu vực (Hòn Gai- Quảng Ninh, Nghệ An…).
Nâng cao sức phục vụ và cạnh tranh cho hệ thống cảng biển
Quy hoạch phân định rõ ràng việc phát triển cảng biển trên cơ sở những điều kiện tự nhiên và nhu cầu phát triển kinh tế của khu vực, có tính đến sự tương tác với các cảng biển lân cận. Điều này sẽ khắc phục được tình trạng địa phương nào cũng muốn phát triển cảng biển, tránh đầu tư lãng phí và sử dụng không đúng công năng của một số cảng biển. Trên thực tế với lượng hàng hóa xuất nhập khẩu không đồng đều, phía Nam có lượng hàng hóa giao thương nhiều hơn phía Bắc trong khi số cảng và quy mô không tương xứng. Quy hoạch lần này sẽ hạn chế được bất cập kể trên.
Đối với cảng biển nhóm 1, ước tính lượng hàng qua đây chừng 163 triệu tấn (năm 2020). Cảng Hải Phòng là cảng tổng hợp quốc gia, cửa ngõ quốc tế với các khu chức năng khác nhau, hay nói đúng hơn, một số bến cảng chuyên dùng như Đình Vũ, Cái Lân… sẽ đảm nhận vai trò vệ tinh trong hệ thống cảng Hải Phòng.
|
Tại Bắc Trung Bộ (nhóm 2), Nghệ An sẽ là cảng tổng hợp quốc gia, đầu mối khu vực, trong đó Cửa Lò, Sơn Dương, Vũng Áng sẽ là những bến chức năng. Lượng hàng hóa qua đây vào năm 2020 ước chừng 152 triệu tấn.
Đối với nhóm 4, nổi bật là 2 cảng Quy Nhơn-Bình Định và Vân Phong-Khánh Hòa, là 2 cảng tổng hợp quốc gia phục vụ chủ yếu cho các khu công nghiệp và trung chuyển các sản phẩm dầu. Riêng cảng Nha Trang trong nhóm 4 này sẽ từng bước chuyển đổi công năng thành bến khách đầu mối du lịch biển, tiếp nhận tàu du lịch quốc tế đến 10 vạn GRT.
Cảng Cần Thơ (nhóm 6) gồm các khu bến chức năng như Cái Cui, Trà Nóc-Ô Môn… chủ yếu làm hàng tổng hợp cho tàu đến 2 vạn DWT (tổng tải trọng của tàu) đến 10 vạn DWT.
Tối đa mọi nguồn lực phát triển cảng biển
Nguồn vốn cần để thực hiện Quy hoạch là rất lớn, do vậy cần huy động tối đa mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để phát triển cảng biển. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào lĩnh vực này, nhất là tham gia qua hình thức nhà nước-tư nhân đối với các cảng có quy mô lớn.
Một điểm phù hợp với thực tế là nguồn vốn ngân sách sẽ tập trung đầu tư cho các hạng mục cơ sở hạ tầng công cộng kết nối với cảng biển như đê chắn cát, trục giao thông nối mạng quốc gia… Các hạng mục này sẽ được áp dụng cơ chế cho thuê đối với các bến cảng được xây dựng bằng vốn ngân sách.
Như vậy, với bờ biển dài, nhiều địa điểm có thể xây dựng thành các cảng biển lớn phục vụ dân sinh và phát triển kinh tế, quy hoạch này sẽ là cơ sở để phát triển hơn nữa lợi thế này của Việt Nam.