Công tác thủy lợi trước biến đổi khí hậu

ThienNhien.Net – Suốt mấy chục năm qua, công tác thủy lợi nước ta đã căn bản đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Trước yêu cầu to lớn của sự nghiệp Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước, nhất là những khó khăn, thách thức mới, về thích ứng với biến đổi khí hậu và thực hiện "tam nông", đang đặt ra cho ngành thủy lợi nhiều việc phải làm.


Thời gian qua, công tác thủy lợi có những đóng góp quan trọng đối với sự phát triển bền vững trong tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội. Tính đến năm 2008, trên phạm vi cả nước, các hệ thống thủy lợi đã bảo đảm tưới trực tiếp cho hơn 3,45 triệu ha đất nông nghiệp, tiêu cho khoảng 1,4 triệu ha, ngăn mặn cho gần 1 triệu ha. Nhiều hệ thống công trình thủy lợi lớn như: Sông Chu, Bắc Nghệ An, Ðồng Cam, Bắc Hưng Hải, Sông Sào… từ nhiều năm nay đã phát huy hiệu quả, phục vụ đắc lực cho sản xuất nông nghiệp và đời sống nhân dân.

Công tác đê điều – phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai luôn được các cơ quan từ Trung ương đến địa phương và toàn dân quan tâm, nâng cao mức bảo đảm an toàn các hệ thống đê sông, đê biển trong việc phòng, chống lũ, bão. Ðến nay, đã xây dựng mới và nâng cấp gần 10 nghìn km đê sông, đê biển, hơn 23 nghìn km bờ bao, hàng trăm km kè… Nhờ vậy, hệ thống đê biển ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ có thể ngăn mặn và triều với tần suất 10% khi gặp bão cấp 9; ở đồng bằng sông Cửu Long, hệ thống bờ bao đã chống được lũ sớm, lũ tiểu mãn bảo vệ vụ lúa hè-thu và các điểm dân cư trong vùng kiểm soát lũ.

Trước yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước hiện nay, ngành thủy lợi đã chú trọng đến việc đầu tư xây dựng các công trình cấp nước sinh hoạt, cấp nước cho công nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Hiện nay, ở nông thôn hơn 70% số hộ đã được cấp nước hợp vệ sinh; tạo nguồn nước cho nuôi trồng thủy sản ở vùng nước ngọt, nước lợ lên hơn 650 nghìn ha.

Trong nhiều năm qua, ngành thủy lợi đã tham gia tích cực vào việc quy hoạch trị thủy, khai thác các hệ thống sông trên phạm vi cả nước, đặc biệt là hệ thống sông Ðà, sông Hồng và các sông lớn ở miền trung và Tây Nguyên. Nhiều đề xuất về phát triển thủy điện đã được Nhà nước đánh giá cao, là cơ sở giúp cho ngành điện trong việc quy hoạch và xây dựng các công trình thủy điện Hòa Bình, Tuyên Quang, Cửa Ðạt…

Trước những biến động ngày càng bất lợi của thời tiết do biến đổi khí hậu toàn cầu gây ra như suy giảm tài nguyên nước, mưa lũ phức tạp hơn, nước biển dâng lên đe dọa đến ổn định của các tuyến đê sông, đê biển, úng ngập các thành phố ven biển. Mặt khác, các hệ thống thủy lợi xây dựng từ lâu đời đã và đang xuống cấp nghiêm trọng, trong khi nguồn tài nguyên nước đã và đang bị suy thoái cả về số lượng lẫn chất lượng sẽ ảnh hưởng đến việc quản lý, khai thác tài nguyên nước, ảnh hưởng trực tiếp đến nông nghiệp, nông dân, phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, ngành thủy lợi đã xác định nhiệm vụ và mục tiêu đến năm 2020 phải thực hiện được là: Bảo đảm nhu cầu nước tưới cho 7,6 triệu ha gieo trồng lúa, 1,2 triệu ha ngô, rau màu cây vụ đông; nước cho nuôi trồng thủy sản, chủ yếu là nuôi tôm 0,65 triệu ha; nước sinh hoạt cho 100% dân nông thôn theo tiêu chuẩn hợp vệ sinh; nâng cao mức an toàn phòng, chống và thích ứng với biến đổi khí hậu để giảm thiểu tổn thất do thiên tai bão lũ gây ra; bảo đảm an toàn các công trình: hồ chứa, đê kè cống. Triển khai thực hiện quy hoạch tiêu thoát nước, chống úng ngập cho TP Hồ Chí Minh và TP Hà Nội; thực hiện đề án chống nước biển dâng cho vùng Bắc Bến Tre; đẩy mạnh công tác khoa học – kỹ thuật, nâng cao năng lực, trình độ khoa học công nghệ và nghiên cứu đánh giá nguồn nước, quy hoạch, thiết kế, xây dựng thủy lợi và quản lý khai thác công trình thủy lợi… để tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp, nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng nông thôn mới.

Ðể hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ trên, ngành tập trung thực hiện sáu giải pháp chính dưới đây:

Một là, tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác quản lý khai thác công trình thủy lợi trong tình hình mới; nâng cao tinh thần trách nhiệm, tính năng động tự chủ của đội ngũ cán bộ, nhân viên quản lý thủy nông; phát huy mọi tiềm lực cơ sở vật chất để vươn lên khai thác tổng hợp các nguồn tài nguyên đất, nước trong các hệ thống thủy nông. Cần phải đánh giá năng lực tưới tiêu của từng công trình, từng hệ thống công trình một cách chính xác để điều tiết nước và mở rộng khai thác triệt để năng lực các công trình đã có, bổ sung quy hoạch cho phù hợp với yêu cầu tưới tiêu và chuyển đổi sản xuất. Ðồng thời phải rà soát kỹ để điều chỉnh, bổ sung quy trình vận hành các hồ chứa…

Hai là, tăng cường công tác quản lý đê điều – phòng, chống lụt bão, giữ vững an toàn hồ, đập trong mọi tình huống. Trong điều kiện ngân sách có hạn, cần tập trung củng cố các đê kè trọng điểm; huy động sự đóng góp của địa phương và người hưởng lợi để thường xuyên củng cố, bổ sung các tuyến đê nhỏ, bờ bao. Ðồng thời phải đẩy mạnh tuyên truyền thực hiện Luật Ðê điều và xây dựng quỹ phòng, chống lụt bão.

Ba là, đẩy mạnh công tác xây dựng cơ bản, ưu tiên vốn đầu tư cho các công trình trọng điểm, bảo đảm thi công nhanh gọn, sớm phát huy hiệu quả. Ðặc biệt, trong xây dựng cơ bản, cần chú trọng việc đầu tư xây dựng đồng bộ giữa đầu mối và kênh mương để phát huy hiệu quả cao; tăng cường công tác quản lý chất lượng, tiến độ công trình và quản lý vốn đầu tư, chống thất thoát lãng phí. Ðồng thời tăng cường hoàn thiện tổ chức quản lý xây dựng cơ bản, nâng cao năng lực và trách nhiệm cán bộ, công nhân viên chức hoạt động xây dựng cơ bản để quản lý tốt các bước từ chuẩn bị dự án, thực hiện dự án đến hoàn thành, bàn giao đưa công trình vào phục vụ sản xuất.

Bốn là, cần coi trọng, đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, quản lý kỹ thuật và đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực. Trong quản lý kỹ thuật cần chú trọng rà soát và bổ sung sửa đổi các quy trình quy phạm trong khảo sát, thiết kế, thi công cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn và xu hướng phát triển thời kỳ hội nhập. Chú ý hơn nữa đến công tác tổng kết thiết kế, thi công. Trong nghiên cứu cần xác định các mũi nhọn cần tập trung, nâng cao chất lượng và tính thực tiễn các đề tài khoa học và mở rộng phổ biến ứng dụng các đề tài khoa học vào thực tiễn.

Năm là, tăng cường quản lý toàn diện các lĩnh vực hoạt động của ngành và đổi mới cơ chế trong các lĩnh vực: thủy nông, đê điều, phòng, chống lụt bão, xây dựng cơ bản… nhằm thực hiện tốt các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra, tạo ra bước phát triển vững chắc trong thời kỳ công nghiệp hóa- hiện đại hóa của đất nước.

Sáu là, từng bước nghiên cứu, lồng ghép vào việc xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho công tác phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu; xây dựng và triển khai thực hiện các chương trình phát triển kinh tế – xã hội có liên quan đến phòng, chống lụt, bão giảm nhẹ thiên tai trong bối cảnh có sự biến đổi khí hậu ứng với từng giai đoạn; đồng thời từng bước kiện toàn bộ máy tổ chức và tăng năng lực, trang thiết bị, cơ sở vật chất cho công tác chỉ đạo, chỉ huy phòng, chống lụt bão, giảm nhẹ thiên tai và tìm kiếm cứu nạn từ Trung ương đến địa phương, v.v.

Những vấn đề đặt ra cho ngành thủy lợi trong thời gian tới là rất lớn, đòi hỏi có sự chỉ đạo tập trung của Ðảng và Chính phủ, đồng thời cần sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, ngành liên quan mới đáp ứng được yêu cầu đặt ra.