ThienNhien.Net – Tài nguyên nước, rừng và khoáng sản luôn gắn bó chặt chẽ với nhau. Trong tự nhiên, khoáng sản thường phân bố ở vùng rừng núi và các thủy vực. Không có nước, cây rừng không thể lớn lên. Trong khi đó, rừng lại giúp điều hòa dòng chảy và ngăn lũ trên các dòng sông và vùng duyên hải. Rừng góp phần điều hòa khí hậu nhờ chu trình hấp thụ cacbon, và nhờ đó giúp ổn định nguồn nước cho lưu vực. Chính vì gắn bó chặt chẽ như vậy, việc khai thác một trong các nguồn tài nguyên kể trên đều có thể dẫn đến hủy hoại tài nguyên khác.
Kỳ 1: Khai thác tài nguyên và môi trường tự nhiên
Tác động của khai thác khoáng sản
Hoạt động khai thác khoáng sản đã phát triển mạnh từ thập kỷ trước ở nhiều quốc gia giàu tài nguyên của Châu Á như Campuchia, Indonesia, Phillipines và Ấn Độ, nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng gia tăng của thế giới về than đá, đồng và các loại khoáng sản khác. Mặc dù khai thác khoáng sản là nguồn thu quan trọng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của nhiều quốc gia, nhưng ngành này cũng gắn liền với những tác động môi trường và xã hội nghiêm trọng, đặc biệt là hiện tượng suy thoái tài nguyên rừng và nguồn nước. Hầu hết các mỏ quặng đều nằm dưới những cánh rừng và thủy vực có chức năng tạo sinh kế cho người dân.
Các phương pháp khai mỏ hiện nay như nổ mìn hoặc khoan đều rất thô sơ, và không hề có nỗ lực nào nhằm khôi phục lại những khu vực đã khai thác do chi phí hoàn nguyên thường cao hơn nhiều so với giá trị khoáng sản. Tác động môi trường tiêu cực từ khai mỏ thường xảy ra ngay trong chính bản thân quá trình khai thác và các hoạt động liên quan như dọn mặt bằng mỏ, vận chuyển và chế biến quặng. Suy thoái rừng và ô nhiễm nước do khai thác khoáng sản không chỉ tác động đến hệ sinh thái mà còn tác động đến sinh kế của người dân sống phụ thuộc vào nguồn tài nguyên này.
Điều đáng tiếc là các công ty khai khoáng ở các nước đang phát triển khu vực Châu Á đều rất ít quan tâm đến tác động môi trường. Trong khi đó, bản thân chính phủ các quốc gia này lại thiếu năng lực hành chính – kỹ thuật cũng như ý chí chính trị để quản lý và kiểm soát hiệu quả lĩnh vực này. Vấn đề này lại càng trở nên trầm trọng hơn bởi một thực tế là thoả thuận khai thác khoáng sản giữa chính phủ và các doanh nghiệp còn thiếu minh bạch, và nỗ lực nhằm kiểm soát nghiêm minh các hoạt động khai khoáng còn bị làm ngơ do sức hấp dẫn lợi nhuận mang lại. Những khu vực bị tàn phá do khai thác thường bị bỏ quên, và tổn hại môi trường hầu như không thể ngăn chặn được.
Phá rừng
Khai thác khoáng sản là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng phá rừng và suy thoái rừng, vì những khoáng sản có giá trị thương mại thường được tìm thấy dưới lòng đất, bên dưới những cánh rừng. Hoạt động khai mỏ theo kiểu hầm lò với quy mô lớn có thể dẫn đến suy thoái rừng nghiêm trọng do phải đốn sạch rừng để lấy mặt bằng khai thác. Cơ sở hạ tầng được xây dựng cho khai thác tạm thời như đường xá, hầm mỏ, đập cũng tác động đến môi trường. Một số lượng lớn gỗ còn được sử dụng để làm trụ chống hầm mỏ, hay trong trường hợp khai thác dưới sâu, gỗ được sử dụng như nguyên liệu để phục vụ hoạt động khai thác.
Suy thoái rừng do khai thác khoáng sản còn có những tác động khác như làm suy giảm năng suất môi trường tự nhiên, tạo ra nhiều rủi ro như lũ lụt, lở đất, các dạng thời tiết bất thường và các thảm họa thiên nhiên khác cho cộng đồng địa phương.
Tiêu dùng nước và gây ô nhiễm nguồn nước
Khoáng sản thường được phát hiện ở những khu vực gần thượng nguồn hoặc kênh dẫn nước của các dòng sông. Do đó, hoạt động khai khoáng có thể đe dọa đáng kể đến sông và nguồn nước theo một số cách khác nhau.
Ô nhiễm kim loại nặng xuất hiện khi một số kim loại (như asen, coban, đồng, chì và bạc) từ các quặng được khai thác hoặc từ các hầm mỏ thoát ra và hòa tan trong nước. Quá trình ô nhiễm xuất hiện khi các chất hóa học, như xyanua được sử dụng để tách các khoáng chất cần thiết ra khỏi quặng, bị rò rỉ hoặc ngấm từ các khu mỏ ra các nguồn nước gần đó. Nhiều khi, để tiết kiệm chi phí, các công ty khai thác khoáng sản có thể còn chủ tâm đổ thải vào các thủy vực.
Hiện tượng ô nhiễm và lắng đọng trầm tích ở các sông và biển do khai thác khoáng sản cũng có thể đe dọa đến đa dạng sinh học trong các thủy vực, đe dọa đến sức khỏe của người dân gần đó, và xa hơn nữa là làm ảnh hưởng đến các cộng đồng sống phụ thuộc vào nguồn nước. Các chất thải có thể làm bẩn các nguồn nước dự trữ khác như các túi nước ngầm. Xói lở từ các mái dốc không có rừng bao phủ làm các con sông đầy ắp bùn phù sa và làm tăng khả năng lũ lụt. Khai thác khoáng sản gần các lưu vực sông, đặc biệt là mỏ than hầm lò càng làm tăng thêm những nguy cơ tai nạn do bị ngập lụt.
Độc chất xyanua và thủy ngân được sử dụng trong quá trình tuyển vàng đã gây ra ô nhiễm nước mặt và nguồn nước ngầm ở các quốc gia như Campuchia, Myanmar và Philippin. Việc sử dụng hóa chất không đúng tiêu chuẩn gây ra những thiệt hại lớn cho môi trường và có thể dẫn tới những tác động nguy hại cho sức khỏe cộng đồng và các hệ sinh thái.
Nhu cầu tiêu thụ nước quá lớn của hoạt động khai thác khoáng sản cũng gây ảnh hưởng đến nguồn cung nước. Ở Ấn Độ, từ 2005 – 2006, ước tính 77 triệu tấn nước đã được sử dụng để khai thác quặng sắt; lượng nước cung cấp đủ cho nhu cầu sinh hoạt của hơn 3 triệu người. Tại mỏ khai thác than non Neyveli ở Tamil Nadu, 40 triệu lít nước được bơm và thải ra hàng ngày. Phần lớn tại các khu vực khai khoáng ở Ấn Độ, người dân đều nhận thấy sự khan hiếm nước nghiêm trọng do khai thác khoáng sản. Cộng đồng địa phương ở Philippens lo sợ rằng ô nhiễm và hiện tượng lắng đọng trầm tích ở các con sông do khai thác khoáng sản có thể làm suy giảm nguồn nước, giảm năng suất lúa gạo và thủy sản.
Tác động của việc đốn gỗ
Khai thác gỗ trái phép, phát triển đồn điền cây công nghiệp (như cọ dầu, cao su), và khai thác khoáng sản đã và đang dẫn tới vấn nạn mất rừng ở nhiều quốc gia Châu Á. Trong những năm gần đây, nhận thức của các nhà hoạch định chính sách, nông dân và cộng đồng nói chung về tác động do suy thoái rừng đối với nguồn nước, đặc biệt là hiện tượng lũ lụt, đã được nâng cao hơn.
Rừng và nước
Rừng góp phần giữ ổn định nguồn cấp nước, giảm thiểu nguy cơ hạn hán cũng như lũ lụt. Rừng còn giúp cân bằng dòng chảy cố định cho các hệ sinh thái và các trung tâm đô thị. Theo các chuyên gia về tài nguyên thiên nhiên ở Thái Lan và Philippines, hiện đang diễn ra tình trạng thiếu nước trong mùa khô và lũ lụt trong suốt mùa mưa ở ngay trong chính các vùng rừng. Họ cho rằng có hiện tượng này một phần do suy thoái rừng và tác động của biến đổi khí hậu.
Suy thoái rừng có thể làm gia tăng nguy cơ lũ lụt. Phá rừng làm tăng lũ lụt vào mùa mưa do tầng thổ nhưỡng không có lớp thực bì che phủ, không thể giữ được nước được như khi còn rừng. Hàng năm, hàng ngàn người ở Bangladesh phải di chuyển khỏi nơi cư trú vì xói lở ven sông do rừng ở thượng nguồn bị chặt hạ để lấy gỗ. Do mật độ dân số cao, những người dân này không có nhiều sự lựa chọn, vì vậy họ thường bị đẩy ra sống ở các khu vực không an toàn vùng ven biển.
Khai thác gỗ thường tác động đến tài nguyên nước. Hoạt động chế biến gỗ, cũng tương tự như quá trình chế biến khoáng sản, đều có nhu cầu nước cao và có khả năng làm ô nhiễm sông suối.
Vai trò của tài nguyên nước
Nước là tài nguyên bị tác động nhiều nhất từ khai thác tài nguyên rừng và khoáng sản. Như đã trình bày ở trên, khai thác khoáng sản làm ô nhiễm nguồn nước, khai thác gỗ làm suy giảm khả năng cung cấp nước do mất rừng – yếu tố đảm bảo cân bằng nước cho toàn lưu vực. Đây là mối quan tâm đặc biệt bởi nước đang ngày càng trở thành một món hàng khan hiếm trên thế giới, do sức ép từ dân số, các công trình thủy lợi, hay tính bất thường của khí hậu do ảnh hưởng của hiện tượng nóng lên toàn cầu.
Xây dựng các đập thủy điện cũng thường phá hủy đáng kể diện tích rừng. Các dự án thủy điện lớn ở khu vực Đông Nam Á đã được dự báo là sẽ phá hủy khá nhiều rừng ở khu vực hồ chứa nước và ở vùng lân cận để xây dựng đường. Những dự án này còn tạo “cơ hội” cho hoạt động phá rừng ở nhiều nơi phục vụ cho việc tái định cư của những cộng đồng bị di dời.
(*) Tiêu đề bài viết do ThienNhien.Net đặt. Nội dung được trích từ báo cáo “Quan hệ tương tác của việc khai thác tài nguyên nước, rừng và khoáng sản ở Nam Á và Đông Nam Á” (Trung tâm Henry Stimson, 2009) của tác giả Junko Kobayashi. Xem bản dịch đầy đủ bằng tiếng Việt tại website của Trung tâm Con người và Thiên nhiên tại đây >>