ThienNhien.net – Cùng với kinh tế vườn, nuôi thủy sản là ngành kinh tế quan trọng của Bến Tre. Năm 2008, tổng sản lượng nuôi thủy sản đạt 158.995 tấn, giá trị ngoại tệ xuất khẩu thủy sản 70,098 triệu USD, chiếm 38,1% kim ngạch xuất khẩu của tỉnh. Dưới đây là những nhận định của ông Nguyễn Văn Hiếu, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bến Tre, về hướng phát triển nuôi thủy sản tại Bến Tre.
Bến Tre với mạng sông ngòi chằng chịt và có bờ biển dài 65 km với hệ sinh thái đa dạng, phong phú.Về tiềm năng nguồn lợi thủy sản, Bến Tre có 3 vùng nước ngọt, lợ và mặn, cả 3 vùng đều có thể nuôi thủy sản với các đối tượng nuôi khác nhau. Tổng diện tích nuôi thủy sản năm 2008 là 42.106 ha (so kế hoạch đạt 100%), trong đó nuôi tôm sú 31.462 ha, chiếm 74,72% diện tích nuôi thủy sản trên toàn tỉnh (nuôi tôm sú thâm canh và bán thâm canh là 5.421 ha, năng suất bình quân 5 tấn/ha mặt nước nuôi; nuôi quảng canh, tôm lúa, tôm rừng 25.865 ha, năng suất bình quân 200 kg/ha). Số diện tích còn lại nông dân, các doanh nghiệp nuôi cá tra và các loại cá khác, tôm càng xanh, các hợp tác xã (HTX), tập đoàn tại vùng ven biển Bến Tre thì nuôi nghêu, sò… Tổng sản lượng nuôi thủy sản năm 2008 là 158.995 tấn, đạt 148,6% so kế hoạch.
Mục tiêu phát triển thị trường của ngành nuôi thủy sản Bến Tre là lấy đối tượng xuất khẩu làm gốc, đồng thời mở rộng đối tượng tiêu thụ nội địa có giá trị kinh tế cao, có thị trường rộng mở. Hiện nay, tỉnh tập trung 5 đối tượng nuôi chủ yếu như tôm sú, cá tra, nghêu, tôm chân trắng và tôm càng xanh. Ngoài ra còn chú ý phát triển một số đối tượng nuôi khác như cá chẽm, cá mú, cá bống tượng, cá kèo, cá điêu hồng, cá rô phi dòng Gift, cua biển, sò huyết, baba, cá sấu.
Riêng với tôm thẻ chân trắng là đối tượng nhập nội, được Bộ NN&PTNN cho phép thả nuôi tại các tỉnh ĐBSCL từ tháng 02/2008, do đó diện tích nuôi tại Bến Tre chưa nhiều. Đến nay diện tích thả nuôi tôm chân trắng chỉ khoảng 170 ha, chủ yếu trên diện tích ao nuôi không còn phù hợp với nuôi tôm sú. Hiện tại tôm nuôi phát triển khá tốt và đang được xem là đối tượng để thay thế cho tôm sú ở những vùng nuôi không thuận lợi.
Bên cạnh đó, nghề nuôi nghêu của Bến Tre phát triển đứng đầu cả nước. Được biết, các tỉnh có thể nuôi được nghêu ở nước ta không nhiều. Với Bến Tre, diện tích tiềm năng phát triển nhuyễn thể khá lớn, khoảng 15.000 ha đất bãi bồi, cồn nổi. Diện tích đã nuôi và khai thác nghêu là 4.200/7.800 ha đất được nhà nước giao. Sản lượng thu hoạch bình quân 9.000 tấn/năm đối với nghêu thịt, cao điểm lên đến 37.000 tấn/năm; và nghêu giống là bình quân hơn 400 -500 tấn/năm, cao điểm hơn 1.000 tấn/năm và ngày càng phát triển với mật độ dày và quy mô rộng hơn.
Các vùng nuôi nghêu tại Bến Tre đang kiện toàn để có được chứng nhận tiêu chuẩn MSC của Hội đồng bảo tồn Biển Quốc Tế( Marine Stewardship). Mục đích của chương trình là khuyến khích phát triển mô hình sinh thái bảo vệ môi trường và bảo tồn đa dạng sinh học, đánh giá xem nghề khai thác nghêu ở Bến Tre có đạt được các tiêu chuẩn quốc tế về quản lý nghề cá bền vững như trong bản Các nguyên tắc và tiêu chuẩn của Hội đồng bảo tồn Biển Quốc Tế (MSC) hay không. Chỉ trong trường hợp nghề khai thác nghêu được đánh giá là đáp ứng đầy đủ các nguyên tác và tiêu chuẩn của MSC thì vùng nuôi của nó mới được sử dụng logo MSC trên các sản phẩm có nguồn gốc xuất xứ từ nghề khai thác này.
Việc này nhằm nâng cao nhận thức để ngày càng hoàn thiện hơn lộ trình phát triển bền vững đối tượng con nghêu dựa vào cộng đồng và thông qua mô hình này vận dụng cho việc phát triển bền vững các đối tượng nuôi khác như: tôm sú, cá tra, tôm càng xanh …
Bến Tre xem lộ trình phát triển bền vững dựa vào cộng đồng là việc làm thường xuyên để góp phần cùng MSC xây dựng thêm nhiều mô hình mang ý nghĩa cho việc bảo vệ môi trường sống của nhân loại và nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống không chỉ cho các cộng đồng nghèo ven biển của Bến Tre mà còn cho cộng đồng nghèo của cả nước và của các quốc gia trên thế giới.
Bù đắp cho sự nỗ lực cống hiến vì mục tiêu chung đó, Bến Tre đã và đang được khách hàng quan tâm tiêu thụ sản phẩm nghêu Bến Tre với giá cả và thị phần ngày càng cao hơn. Các nhà máy chế biến xuất khẩu thủy sản của Bến Tre có điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm đã góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, giải quyết tốt công ăn việc làm cho ngư dân nghèo.
Hiện nay, qua mô hình tổ chức, quản lý cộng đồng, các HTX nuôi nghêu tại Bến Tre càng được củng cố phát triển, làm tốt công tác bảo vệ môi trường thiên nhiên, liên kết được giữa vùng nguyên liệu với các nhà máy chế biến xuất khẩu và nhất là nguồn lợi từ con nghêu đã góp phần lớn trong xóa đói giảm nghèo cho nhân dân nơi vùng ven biển Bến Tre. Có thương hiệu MSC, con nghêu Bến Tre sẽ sẵn sàng cho bước đi xa hơn nữa trên thị trường thế giới.
Tiêu chí MSC sẽ được đánh giá chứng nhận lại sau 5 năm. Do vậy, điều quan trọng là ngành, địa phương, các cộng đồng ngư dân phải làm thế nào để duy trì tốt các công việc đã làm có hiệu quả trong thời gian qua, tiếp tục phát huy tinh thần trách nhiệm để duy trì việc quản lý và quảng bá tên tuổi của con nghêu mang tiêu chí MSC trên thị trường thế giới.