Có thể nói việc thải hồi không đúng cách của các dược phẩm không còn dùng nữa là nhân tố lớn nhất cho vấn đề ô nhiễm dược phẩm. Theo thống kê của Cơ quan Thăm dò Địa chất Hoa Kỳ (US Geological Survey), trên 139 nguồn nước đã được nghiên cứu, 80% nguồn nước đều có chứa những vi lượng của rất nhiều dược phẩm, trong đó hơn phân nửa chứa trên 7 hoá chất khác nhau, và có nguồn chứa 38 hoá chất. Ảnh hưởng lên con người của các vi lượng nầy hòan toàn chưa được biết đến. Vài nghiên cứu chứng minh mốt số ảnh hưởng tiêu cực lên một vài sinh vật trong thiên nhiên như cá chẳng hạn.
Nạn nhân đầu tiên của sự ô nhiễm dược phẩm là phải kể đến tôm cá và những thực động vật sống trong cả nước ngọt lẫn nước biển. Không ai nghĩ đến cũng như lên kế hoạch “ngừa thai” cho cá, nhưng trên thực tế cá đã bị ngừa thai qua đường nước cống chảy vào song rạch và đổ ra biển. Một loại oestrogen tổng hợp thuốc ngừa thai như 17alpha-ethinylestradiol đã làm cho một số cá đực (trống) (cá hương (trout) và cá fathead minnow) không còn khả năng truyền giống của giống đực nữa, mà đã biến thành giống cái (feminize) nhưng không có khả năng sinh sản qua các cuộc nghiên cứu của TS John Sumpter, Anh vào những năm 90.
Thuốc an thần như Prozac cũng đã làm giảm khả năng tăng trưởng của cá và ếch nhái. Nhà khoa học còn e sợ rằng các thuốc trụ sinh trị liệu cho qia súc sẽ làm tăng tính kháng sinh của vi khuẩn, do đó mức trị liệu sẽ phải tăng thêm nồng độ hay phải thay đổi dược phẩm khác. Nước thải qua việc chăn nuôi gia súc ở Hoa Kỳ hàng năm thải hồi vào môi trường 500 triệu tấn gồm thuốc trụ sinh, các hormones tổng hợp và những loại hoá chất dành riêng cho súc vật
Mỗi loại thuốc có một đời sống riêng và có mục đích trị liệu một số bịnh để làm tăng phẩm chất của cuộc sống con người. Nhưng chính nó, cũng là một độc tố trong một chừng mực nào đó do hệ quả (side effects) của nó để lại và ảnh hưởng lên con người. Và dược phẩm không ngừng ở đó sau khi con người hay thú vật uống vào. Chúng đã được thải hồi qua đường tiểu tiện, rồi qua hệ thống xử lý nước thải, qua đường nước mưa và nước tưới nông nghiệp. Còn các dược phẩm dưới dạng rắn qua nhưng phân súc vật chăn nuôi. Và đa số dược phẩm gia đình thường được đổ bỏ qua đường toilet và chúng sẽ vào hệ thống cống nước sinh hoạt gia đình…
Con người đã sản xuất hàng ngàn, hàng chục ngàn sản phẩm với mưu cầu kéo dài đời sống, mang lại phẩm chất sống tối ưu, nhưng hoàn toàn chưa khống chế cũng như hiểu biết được của các dược phẩm trên ở ngoài môi trường. Chúng ta chưa hiểu tường tận tính chất của dược phẩm, chính những hoá chất nầy hiện đang là một thách thức lớn cho con người.
Dược phẩm là hóa chất. Một khi đi vào môi trường, qua các phản ứng hoá học giữa chúng với nhau, qua các phản ứng sinh huỷ (bio-degradation) v.v… chúng trở thành một hoá chất khác, có thể có tính độc hại cao hơn và đời sống bán huỷ dài hơn, nghĩa là tồn tại trong môi trường lâu hơn, và dĩ nhiên gây di hại nhiều hơn.
Hiện tại chưa có nhà khoa học nào có thể ước tính được những hệ luỵ vừa kể trên của các dược phẩm sau khi đi vào môi trường.
Nguồn phát thải ô nhiễm dược phẩm
Dược phẩm hết hạn, hay không còn dùng nữa đã đi vào môi trường qua nhiều ngả khác nhau mà con người là nguyên nhân của việc tạo ra nguồn ô nhiễm trên. Trên thực tế và cũng qua sự bất lưu tâm của con người, dược phẩm không đươc xem như là chất làm phương hại đến môi trường theo cung cách suy nghĩ thường tình. Ngay cả đối với những nhà máy sản xuất dược phẩm vẫn chưa đặt trọng tâm đúng mức cho việc bảo vệ môi trường trong việc nghiên cứu và sản xuất dược phẩm.
Tiến trình sản xuất và tinh chế một dược phẩm đòi hỏi một lượng rất lớn nước cho nhu cầu trên, và phế thải lỏng có chứa dược phẩm nầy và các phó sản đa phần đi thẳng vào hệ thống cống rãnh.
Dược phẩm một khi được trộn lẫn với nhau sẽ phản ứng hổ tương theo phản ứng hoặc oxid – khử hoá, hoặc thuỷ phân để biến thành các hoá chất trung gian. Các hoá chất sau nầy trong giai đoạn hai sẽ bị sulphat hoá hay amino hoá để tạo thành một số hoá chất khác mà mức độc hại hoàn toàn không được biết đến.
Các nguồn phế thải dược phẩm bao gồm:
– Nhà máy xử lý hệ thống cống rảnh: Các nhà máy nầy xử lý cơ học, hoá học, đôi khi xử lý sinh học, nhưng vẫn không thể nào loại tất cà dược phẩm có trong nguồn nước nầy;
– Bải rác: dược phẩm xâm nhập vào bãi rác qua nguồn rác sinh hoạt gia đình do con người phát thải ra. Bùn (sludge) phát sinh do việc xử lý nước cống rảnh cũng là nguồn ô nhiễm dược phẩm trong các bãi rác;
– Nguồn nước uống: Nguồn nước rỉ từ bãi rác, cũng như nước xử lý dùng để tưới tiêu mang dược phẩm còn tồn đọng sẽ thấm vào mạch nước ngầm qua hiện tượng thấm sâu (percolation); do đó, sẽ làm ô nhiễm nguồn nước uống cho con người;
– Gia súc chăn nuôi: Trong quá trình chăn nuôi hiện đại, thức ăn gia súc thường được pha trộn hormone tăng trưởng. thuốc kháng sinh, và một số dược phẩm khác cho nhiều mục tiêu chăn nuôi khác nhau. Từ đó, nước tiểu và phân súc vật cũng là nguồn ô nhiểm dược phẩm không kém quan trọng.
Theo thống kê ở vùng San Francisco, 45% dược phẩm không dùng nữa hay đã hết hạn được phát thải qua đường toilet, và 28% đi vào bãi rác. Hàng năm Hoa Kỳ tiêu thụ 235 triệu liều thuốc trụ sinh, và gia súc chăn nuôi (bò và gà) gậm nhấm 21 triệu cân Anh trong năm 2004.
Ảnh hưởng lên đời sống con người
Vài nghiên cứu riêng rẽ hiện nay đưa ra một số suy nghĩ về ô nhiễm dược phẩm ảnh hưởng lên con người. Con số nầy tuy nhỏ nhưng đã nói lên tầm quan tâm của những nhà làm khoa học hiện đại. Sự hiện diện của một dung lượng thật nhỏ của hoá chất thalidomide trong nguồn nước uống có thể ảnh hưởng lên thai nhi trong bụng mẹ. Daughton, một nhà độc tố học phát biểu như sau:”dù dưới một dung lượng thật nhỏ, các dược phẩm (hoá chất) dù là tổng hợp hay thiên nhiên cũng ảnh hưởng ít nhiều lên cơ thể con người”.
Phải làm gì với nguồn dược phẩm không dùng nữa trong nhà?
Một phần chương trình trong kế hoạch “Dược phẩm Xanh” (Green Pharmacy) là giải quyết các nguồn trên dưới danh nghĩa “dược phẩm và sản phẩm dùng cho (vệ sinh) cá nhân (pharmaceuticals and personal care products (ppcps)). Sự ô nhiễm của ppcps rất phức tạp dưới nhiều dạng khác nhau qua phản ứng hoá học, độc tố học, y khoa, chính sách công cộng ở từng địa phương, cùng cung cách ứng xử của con người. Các dược phẩm thông thường ảnh hưởng đến hệ sinh thái là: hormones, thuốc trụ sinh-kháng sinh, các loại thuốc điều hoà mở trong máu, dược phẩm chống nhiễm (anti-inflammatory drugs), dược phẩm dưới dạng beta-blockers, thuốc an thần, các loại dược phẩm ảnh hưởng lên sự chuyển đổi di truyền, và dược phẩm cường dương như Viagra..
Vì vậy, trước nguy cơ trên, mỗi người trong chúng ta phải ý thức và hành động để có thể hạn chế được nguy cơ trên.
Nếu bạn mở tủ thuốc gia đình ra, bạn sẽ thấy trung bình một người sống tại Hoa Kỳ có 11 toa kê thuốc trong năm 2006, theo thống kê của Kaiser Foundation, tức 3,3 tỷ toa thuốc cho năm này. Đó là chưa kể số thuốc được mua tại quầy hàng không cần toa bác sĩ. Kể từ bây giờ cho đến khi có phương cách chính thức của USEPA và FDA, bạn cần giải quyết các dược phẩm không dùng nữa như sau:
– Nhắc nhở mọi người chấm dứt việc đổ dược phẩm vào toilet;
– Dược phẩm không dùng cần trộn lẫn với xác cà phê hay hổn hợp phế thải của mèo để tránh kẻ gian dùng lại rất nguy hiểm;
– Dược phẩm ở dạng rắn cần được mang đến một địa diểm chỉ định qua chương trình thu hồi lại (take back program) ở địa
phương. Phế thải nầy sẽ được đem đi thiêu đốt (incineration). Tiểu bang Illinois và Indiana đã thực hiện chương trình này và có cả hệ thống giáo dục cho người dân hiểu rõ thêm mức tác hại của sự ô nhiễm dược phẩm.
Qua một vài cử chỉ trên, chúng ta đã thể hiện một hành động tích cực cho Dược phẩm xanh cũng như tạo ra những nhân tố mới cho việc đề phòng, và chữa trị ứng hợp với chiều hướng toàn cầu hoá và bảo vệ môi trường bền vững.