ThienNhien.Net – Rừng ngập mặn Cà Mau (rừng đước Năm Căn) và rừng tràm U Minh hạ một thời là niềm tự hào không chỉ riêng của người dân Cà Mau. Mặc dù bị chiến tranh tàn phá nặng nề nhưng rừng nơi này vẫn còn dày đặc, xanh thẳm. Rừng tràm trải rộng khắp vùng U Minh Hạ, rừng đước ở vùng Năm Căn – Ngọc Hiển bám theo những hạt phù sa lấn dần ra biển. Thế rồi, làn sóng chiếm đất phá rừng để làm nông nghiệp, nuôi tôm rầm rộ sau đó ít năm đã khiến rừng Cà Mau nhanh chóng suy kiệt. Để cứu rừng, hàng loạt các chủ trương, cơ chế chính sách phát triển kinh tế rừng đã ra đời. Tuy nhiên, cuộc sống luôn biến đổi, nhiều cơ chế đã không còn phù hợp nữa, trở thành rào cản đối với phát triển của rừng. Trên thực tế, rừng Cà Mau đang nằm trong quỹ đạo chậm phát triển đó.
Xã hội hoá rừng còn lắm nhiêu khê
Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Cà Mau, năm 2007 hiện trạng quản lý và sử dụng đất lâm nghiệp được quy hoạch lại với tổng diện tích 168.299 ha. Trong đó, diện tích rừng đặc dụng 24.591 ha, rừng phòng hộ ven biển 40.241 ha và rừng sản xuất 103.467 ha.
Những năm trước đây, mỗi năm Nhà nước đầu tư hàng tỷ đồng cho công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, và một bộ máy các lâm ngư trường, ban quản lý bảo vệ rừng được hình thành theo từng khu vực để thực hiện nhiệm vụ này. Nhưng do cơ chế quản lý, bảo vệ rừng từng lúc, từng nơi chưa phù hợp dẫn đến một hệ quả là diện tích rừng ngày càng thu hẹp, vốn rừng cạn kiệt, tỷ lệ che phủ thấp.
Trước đây, mô hình quản lý và bảo vệ rừng theo truyền thống đã phát huy hiệu quả nhất định, rừng do các đơn vị quốc doanh quản lý tập trung theo từng khu vực, nên mật độ rừng còn khá cao. Tuy nhiên, do nhu cầu bức xúc cuộc sống của người dân, Nhà nước có chủ trương giao đất, giao rừng cho dân quản lý, bảo vệ, kết hợp với việc đầu tư sản xuất nông, ngư, lâm nghiệp.
Lúc này, khái niệm rừng kinh tế ra đời, và mô hình quản lý, bảo vệ rừng ở Cà Mau cũng thay đổi, được nhiều người nói đến là lâm nghiệp xã hội, có cộng đồng dân cư sống trên lâm phần tham gia vào công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Rừng thật sự đã có chủ.
Xuất phát từ chủ trương này, trong một thời gian dài tỉnh Cà Mau đã đưa gần 20.000 hộ dân thuộc gia đình chính sách nghèo, hộ đồng bào dân tộc, hộ không đất sản xuất vào lâm phần để giao đất, giao rừng theo Nghị định 01/CP của Chính phủ (nay là Nghị định 135). Vô hình chung rừng Cà Mau trở thành “cái túi” mang cả một bộ phận khá lớn dân nghèo, thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm về quản lý, bảo vệ và phát triển rừng.
Hơn thế nữa, trong những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ trước, do công tác quản lý lỏng lẻo, rừng Cà Mau “hứng” thêm một làn sóng dân di cư tự do từ các nơi đến định cư sinh sống tạm bợ ở các khu vực ven rừng đước và rừng tràm. Chỉ tính riêng khu vực rừng ngập mặn có hơn 6.000 hộ sinh sống trong khu vực rừng phòng hộ ven biển. Gánh nặng dân di cư tự do lại đặt ra nhiều vấn đề xã hội phức tạp cho đến bây giờ tỉnh Cà Mau chưa có giải pháp.
Hầm than tràm là sinh kế duy nhất của nhiều người dân dưới tán rừng tràm U Minh hạ trong những năm qua. (Ảnh: Kim Ngôn) |
Ông Ngô Chí Dũng, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Cà Mau, cho biết hiện nay trên toàn lâm phần rừng đước và rừng tràm Cà Mau có hơn 24.000 hộ dân với 120.000 nhân khẩu đang sinh sống, trong đó có hơn 21.000 hộ dân đươc giao khoán đất lâm nghiệp.
Ở khu vực rừng tràm có 6.000 hộ nhận khoán với diện tích 33.000 ha, quy mô chủ yếu từ 3-10 ha/ hộ. Ở khu vực rừng ngập mặn có khoảng 15.800 hộ nhận khoán sản xuất với diện tích trên 70.000 ha, quy mô sản xuất rất đa dạng, có khoảng 35% số hộ có quy mô diện tích dưới 3 ha, nhưng có những hộ diện tích được giao khóan trên 10 ha. Nguyên nhân trước đây ở khu vực này các hộ dân tự bao chiếm, sau đó được sắp xếp, ổn định và hợp thức hóa thủ tục giao khoán theo nghị định 01/CP.
Từ thực tế đó, việc đầu tư quy hoạch, sắp xếp công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng đã đặt ra nhiều vấn đề bất cập.
Gam màu tối dưới tán rừng!
Đến rừng tràm U Minh hạ, tôi thoáng chạnh lòng trước cảnh rừng bị “xẻo ruột” manh mún ra theo từng cụm, tuyến dân cư. Đó là hình thức để giao khoán cho dân, quản lý sử dụng theo tỷ lệ quy định 7-3 (diện tích trồng rừng 70%, trồng lúa 30%). Theo đó, các kênh trục thủy lợi được mở ra dọc ngang như bàn cờ trong ruột rừng, làm cho rừng như một mảng da beo manh mún, điều hiển nhiên vốn rừng sẽ cạn kiệt.
Một khoảnh đất trồng rừng tràm của người dân U Minh hạ giờ trở thành hoang hóa.(Ảnh: Kim Ngôn) |
Được biết, chủ trương giao khoán đất lâm nghiệp lúc bấy giờ là phải “liền canh – liền cư – liền ruộng – liền rừng” và thuận lợi cho giao thông đi lại, nên các lâm ngư trường đã giao khoán cho dân ở những khu vực có kinh xáng đi qua.
Hiện tại trên lâm phần rừng tràm U Minh hạ có 62 tuyến dân cư, dẫn đến tình trạng dân cư được bố trí rải rác trên toàn lâm phần, rất khó khăn cho việc đầu tư cơ sở hạ tầng và công trình phúc lợi xã hội phục vụ cho đời sống của người dân dưới tán rừng tràm. Do đó, bức tranh đời sống khu vực rừng tràm nhiều năm qua vẫn không thể thoát khỏi một gam màu tối.
Thực tiễn gần 20 năm qua cho thấy việc bố trí sản xuất lúa xen lẫn với rừng là không bền vững, kém hiệu quả và chứa đựng nhiều mâu thuẫn giữa việc giữ nước phòng chống cháy rừng và điều tiết nước phục vụ cho sản xuất nông nghiệp.
Hằng năm khi kết thúc mùa mưa, các đơn vị quản lý và bảo vệ rừng đã cho đắp lại hết các con đập để trữ nước phòng, chống cháy rừng. Điều này làm cho sản xuất nông nghiệp bị ngập úng, năng xuất lúa rất thấp, thậm chí có năm nông dân trắng tay.
Mặt khác do bố trí đất sản xuất nông nghiệp đan xen với rừng nên người dân không có điều kiện cải tạo đất, dẫn đến năng suất cả lúa và rừng đều thấp. Mâu thuẫn trong sản xuất kéo dài nhiều năm nay nhưng chưa có bài toán khả thi để khắc phục. Cái vòng luẩn quẩn này như điệp khúc buồn cứ lặp đi lặp lại làm cho đời sống người dân dưới tán rừng gặp rất nhiều khó khăn, túng quẩn.
Bây giờ nhiều người trong số họ không còn thiết tha với rừng nữa…