Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có dân số trên 17 triệu người, diện tích tự nhiên là 4.060.400 ha có bờ biển từ Đông sang Tây dài trên 740 km với hải phận trên biển 360.000 km2. Đây là vùng đất ngập nước điển hình của quốc gia với chế độ ngập lũ, ngập mặn và hệ thống sông rạch chằng chịt, có các hệ sinh thái rừng ngập mặn, hệ sinh thái rừng tràm và các hệ sinh thái nông nghiệp rất phát triển… Những tiềm năng đó mở ra nhiều triển vọng để ĐBSCL phát triển nhanh, trở thành một vùng kinh tế quan trọng của đất nước. Tuy nhiên, những năm qua, tình trạng dân số tăng nhanh, tài nguyên suy giảm, môi trường ô nhiễm… đã gây áp lực ngày càng lớn đến phát triển kinh tế- xã hội, đến tài nguyên, môi trường và ảnh hưởng đến đời sống, sức khỏe của nhân dân trong vùng…
Thực trạng đáng lo ngại
Chế độ ngập lũ ở ĐBSCL, tập trung ở các tỉnh Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Kiên Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long… kéo dài từ tháng 7 đến tháng 12 hàng năm. Ngập lũ ở ĐBSCL hàng năm đã tác động nhiều mặt đến điều kiện sinh sống của người dân, đến cơ sở hạ tầng, đến phát triển kinh tế, y tế, giáo dục và đặc biệt là tác động đến sức khỏe của cộng đồng dân cư.
Chế độ ngập mặn ở ĐBSCL chịu sự chi phối của chế độ bán nhật triều trên biển Đông và chế độ nhật triều biển Tây vịnh Thái Lan, tập trung ở các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre, Tiền Giang… với tổng diện tích khoảng 1,4-1,5 triệu ha. Những năm gần đây, quá trình chuyển dịch cơ cấu canh tác nông nghiệp lúa nước truyền thống sang nuôi tôm nước mặn đã làm cho diễn biến xâm nhập mặn gia tăng nhanh chóng, tạo nên các áp lực mới đối với hệ canh tác nước ngọt ở khu vực ĐBSCL.
Đặc biệt ĐBSCL còn có vùng đất phèn khá lớn tập trung ở Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên, Bán đảo Cà Mau… với diện tích khoảng 1,5 triệu ha. Tác động của các hoạt động canh tác nông-lâm-ngư đã diễn ra quá trình lan truyền phèn có tác động đến môi trường nước và đất ở ĐBSCL.
Trong cơ cấu kinh tế của ĐBSCL hiện nay, khu vực nông-lâm-ngư chiếm 48%, khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 22%; khu vực dịch vụ chiếm 30%. Điều đó cho thấy kinh tế ở đây vẫn chủ yếu là nền kinh tế phụ thuộc sinh thái, trong đó trạng thái và chất lượng môi trường nước, môi trường đất và các hệ sinh thái có tính chất quyết định đến các chất lượng và sản lượng các sản phẩm nông- lâm- ngư. Là vùng sản xuất nông nghiệp lớn nhất toàn quốc, thế nhưng, ĐBSCL lại đang phải đối mặt với một số vấn đề môi trường cần giải quyết để bảo đảm sự phát triển bền vững trong khu vực.
Quá trình sử dụng đất trong canh tác nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, công nghiệp, đô thị hóa… làm biến đổi đất, suy thoái đất gây ô nhiễm môi trường. Diện tích nuôi trồng thủy sản tăng lên rất nhanh. Năm 2000 là 445.300 ha, đến năm 2006 đã là 699.200 ha, với tổng sản lượng thủy sản nuôi trồng 1.171.001 tấn, chiếm trên 70% sản lượng nuôi trồng và trên 60% tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản của cả nước. Diện tích trồng lúa cả năm giảm dần: Năm 2000 là 3.945.800 ha, đến năm 2006 là 3.773.200 ha (trồng lúa mùa, lúa đông xuân và lúa hè thu).
Các hệ sinh thái đất ngập nước bị tác động cả về quy mô và chất lượng các hệ sinh thái trong khu vực. Sự cố cá chết hàng loạt ở An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, tôm chết kéo dài ở Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang, Sóc Trăng… gây thiệt hại kinh tế lớn đến phát triển kinh tế – xã hội ở đây. Tổng lượng bùn thải và chất thải nuôi trồng thủy sản ở ĐBSCL khoảng 456 triệu m3/năm. Đặc biệt, trong nông nghiệp hàng năm sử dụng khoảng 2 triệu tấn phân bón hóa học, 500.000 tấn thuốc bảo vệ thực vật và các chế phẩm nuôi trồng thủy sản… gây tác động nhiều mặt tới môi trường và sức khỏe con người.
Hệ sinh thái rừng ngập mặn ven biển, rừng tràm ngập úng ở khu vực ĐBSCL đã bị suy giảm do quá trình khai hoang phát triển canh tác nông nghiệp, phá rừng nuôi trồng thủy sản. Đến nay, diện tích đất lâm nghiệp trong khu vực chỉ còn khoảng 356.200 ha – trong đó, rừng tự nhiên chỉ chiếm khoảng 15% và còn lại 85% là rừng trồng tái sinh. Tại vùng biển và ven biển có đến 260 loài cá được ghi nhận và rất nhiều loại nhuyễn thể, giáp xác… sinh sống. Tuy nhiên hệ sinh thái ở đây đã bị suy giảm nghiêm trọng.
ĐBSCL có bờ biển dài 740 km kéo dài từ bờ biển phía Đông sang bờ biển phía Tây vịnh Thái Lan có tiềm năng kinh tế và an ninh quốc phòng to lớn của cả nước. Các hoạt động thăm dò khai thác dầu khí có nguy cơ gây sự cố môi trường. Các hoạt động nuôi trồng thủy sản, canh tác nông nghiệp, sản xuất công nghiệp, sinh hoạt và đời sống… có các nguồn thải chưa xử lý triệt để tác động ra vùng ven biển, cửa sông làm cho chất lượng môi trường bị suy giảm. ĐBSCL hiện có ít nhất 81 vị trí xói lở bờ sông, bờ biển và 37 khu bồi lắng có nguy cơ gây sự cố môi trường. Sự cố tràn dầu vào bờ biển diễn ra kéo dài năm 2007 tại các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Tiền Giang… đã gây thiệt hại kinh tế và môi trường ở khu vực ven biển.
Sản xuất, kinh doanh và dịch vụ ở khu vực ĐBSCL đã có bước phát triển rất nhanh chóng cũng đã có nhiều tác động đến môi trường. Đến năm 2006, toàn vùng có 14.258 cơ sở sản xuất, kinh doanh và dịch vụ đang hoạt động. Năm 2007, có 151 khu công nghiệp và cụm công nghiệp sản xuất tập trung. Tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt khoảng 606.267 tấn/năm, nước thải sinh hoạt 102 triệu m3/năm, chất thải rắn công nghiệp 47,2 triệu m3/năm, rác thải y tế 3.800 tấn/năm. Các nguồn thải này hầu hết chưa được xử lý triệt để đang gây ô nhiễm môi trường trầm trọng.
Nguồn nước trên sông Tiền, sông Hậu và các cửa sông thông ra biển… đã có các dấu hiệu nhiễm bẩn chất hữu cơ và vi sinh. Quan trắc môi trường nước cho thấy các chỉ tiêu bị nhiễm bẩn là: BOD, COD, Coliform, H2S, NH4, phèn sắt… do các nguồn thải sản xuất công nghiệp, đô thị và các khu dân cư, nguồn thải nuôi trồng thủy sản, sản xuất nông nghiệp… chưa xử lý triệt để vẫn tiếp tục thải vào hệ thống sông rạch trong khu vực. Nguồn nước ngầm được khai thác và sử dụng cho sinh hoạt đời sống, sản xuất công nghiệp, canh tác nông- lâm- ngư… chưa được kiểm soát chặt chẽ, gây tác động làm sụt giảm mực nước ngầm ở một số nơi, nhiễm bẩn tầng nước ngầm.
Bên cạnh đó, tình trạng nhiễm Asen cũng đã được phát hiện ở Đồng Tháp, Long An, Kiên Giang, An Giang, Vĩnh Long, Bạc Liêu… Hiện nay, ở ĐBSCL, ước tính còn khoảng 20-30% số hộ gia đình chưa có nước sạch để sử dụng trong đời sống và sinh hoạt, tác động đến sức khỏe của nhân dân và đặc biệt là diễn biến dịch bệnh đối với con người và nhiều loại vật nuôi.
Kiến nghị một số giải pháp
Để đảm bảo sự phát triển bền vững trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa ĐBSCL, trên cơ sở của đặc điểm địa hình tự nhiên, kinh tế-xã hội và phân vùng sinh thái… thiết nghĩ, chính quyền các cấp và các cơ quan chức năng cần tập trung thực hiện tốt một số vấn đề cơ bản sau đây.
Quy hoạch phát triển nông- lâm- ngư đảm bảo an ninh lương thực và bảo vệ hệ sinh thái đất ngập nước đặc thù ở ĐBSCL. Phát triển sản xuất công nghiệp, các khu, cụm công nghiệp phải gắn liền với quy hoạch môi trường trong mối quan hệ chiến lược phát triển vùng ĐBSCL.
Quy hoạch phát triển đô thị và các khu dân cư, cụm dân cư gắn liền với quy hoạch cấp nước sạch và vệ sinh môi trường. Quy hoạch phát triển du lịch sinh thái gắn liền với đặc điểm vùng đất ngập nước đặc thù của các hệ sinh thái trong mối quan tâm bảo vệ môi trường. Phát triển giao thông vận tải đường bộ, đường thủy… để tạo cơ sở hạ tầng thuận lợi cho phát triển kinh tế- xã hội và giải quyết hài hòa các vấn đề ngập mặn, ngập lũ- đặc biệt là đối phó với tình trạng nước biển dâng cao ở khu vực ven biển ĐBSCL.
Nâng cao năng lực quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường cho các cấp chính quyền và các ngành chức năng trong việc thực thi Luật Bảo vệ môi trường và giải quyết các vấn đề môi trường đặt ra. Giám sát chặt chẽ quy trình lập và thẩm định đánh giá tác động môi trường theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường.
Giám sát các dự án đầu tư, từ ngay khi xây dựng dự án, thẩm định dự án, đầu tư dự án và đưa vào hoạt động, kiên quyết xử lý triệt để các hình thức vi phạm Luật Bảo vệ môi trường. Hỗ trợ các doanh nghiệp, chủ dự án đầu tư trong việc lựa chọn công nghệ đầu tư sản xuất, vốn đầu tư cho công nghệ xử lý môi trường và thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi trường tại cơ sở.
Nâng cao năng lực trong việc quan trắc chất lượng môi trường, ứng cứu xử lý kịp thời các sự cố môi trường, suy thoái môi trường và ô nhiễm môi trường. Tăng cường năng lực hoạt động nghiên cứu khoa học môi trường, ứng dụng công nghệ môi trường và chuyển giao công nghệ môi trường vào thực tiễn nền KT-XH. Đảm bảo ngăn ngừa ô nhiễm môi trường, xử lý ô nhiễm môi trường một cách hiệu quả trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở khu vực ĐBSCL.
Tập trung nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao hiệu quả các công nghệ xử lý môi trường như: Công nghệ xử lý rác thải, nước sinh hoạt ở vùng đất ngập nước ở ĐBSCL. Công nghệ xử lý chất thải công nghiệp và chất thải nguy hại. Công nghệ xử lý chất thải y tế và bệnh viện. Công nghệ xử lý chất thải trong chế biến và nuôi trồng thủy sản. Công nghệ sinh học trong xử lý môi trường. Công nghệ cung cấp nước sạch hợp vệ sinh. Các công nghệ sản xuất và canh tác hợp sinh thái với vùng đất ngập nước ở ĐBSCL…
Xây dựng cơ chế chính sách hữu hiệu để tăng cường hợp tác quốc tế về nghiên cứu và chuyển giao công nghệ xử lý môi trường, mở rộng thị trường công nghệ môi trường ở ĐBSCL đảm bảo sự phát triển bền vững kinh tế- xã hội và bảo vệ môi trường trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước ở khu vực ĐBSCL.