ThienNhien.Net – Các nhà khoa học cảnh báo đã đến lúc thế giới nên nhận thức được rằng nếu đa dạng sinh học tiếp tục bị mất đi trong tương lai các thế hệ thuốc kháng sinh mới, các phương thuốc chữa trị bệnh loãng xương và suy thận mới, và cả các loại thuốc điều trị ung thư sẽ không còn.
Tại Singapore, UNEP đã tổ chức một hội nghị Doanh nghiệp vì Môi trường với sự góp mặt của 600 uỷ viên hội đồng quản trị và chuyên gia môi trường. Một trong những vấn đề được thảo luận chính tại hội nghị là cuốn sách “Sustaining Life” (Cuộc sống bền vững) do hơn 100 chuyên gia viết, với sự trợ giúp của UNEP cùng nhiều tổ chức khác nhau. Cuốn sách này chủ yếu đưa ra những triết lý khác nhau làm thay đổi cuộc sống của chúng ta.
Ngoài ý nghĩa là một tài liệu khoa học, cuốn sách còn kèm theo một lời cảnh báo rằng, sẽ trở nên quá muộn cho tới khi chúng ta hiểu về những bí mật của cuộc sống. Nó cũng cố gắng trả lời cho câu hỏi tại sao chúng ta cần phải bảo vệ cuộc sống tự nhiên. Để minh hoạ cho luận điểm này, tác giả đã đưa ra ví dụ về một loài ếch ấp trứng bằng dạ dày Rheobatrachus, loài này có thể cung cấp cho chúng ta liều thuốc chữa trị căn bệnh loét dạ dày, một loại bệnh có hàng triệu người mắc phải trên thế giới song loài này đã tuyệt chủng nên cách chữa trị đó cũng không còn nữa.
Ông Eric Chivian và Aaron Bernstein, 2 tác giả chính của cuốn sách này thuộc Trung tâm Sức khoẻ và Môi trường toàn cầu, khoa Y trường Đại học Harvard đã cho hay rằng: “Những nghiên cứu của chúng tôi có thể bị ngừng lại bởi loài Rheobatrachus đã tuyệt chủng và những bí mật y học có giá trị mà chúng tôi biết giờ cũng ra đi mãi mãi”.
“Sustaining Life” đã cố gắng tìm hiểu về 7 nhóm sinh vật có nguy cơ bị tuyệt chủng có giá trị đối với y học, bao gồm các động vật lưỡng cư, gấu, ốc nón, bộ động vật linh trưởng không phải người, cây hạt trăm, con sam. “Sustaining Life” cũng nhấn mạnh đến những thứ có thể gây ra thiệt hại cho sức khoẻ con người khi các loài này tuyệt chủng. Việc mất đi hệ động vật quí giá này cũng sẽ dẫn đến sự mất đi những hướng đi mới đầy triển vọng đối với nghiên cứu y học và các cách chữa trị mới, dược phẩm và các bài kiểm tra chuẩn đoán bệnh.
Các động vật lưỡng cư là nguồn nguyên liệu để chế ra chất Pumiliotoxin . Chất này được sử dụng trong các loại thuốc làm tăng các cơn co thắt tim và bởi vậy chứng tỏ là có ích đối với việc chữa trị bệnh tim. Các Alkadoid hiện tại có trong một vào loài cũng có thể được sử dụng để điều chế ra các loại thuốc nhằm giảm bớt cơn đau. Các chất như Bradykinin và Maximakinin được làm từ các tuyến da của một vài loài ếch làm giảm cơ các mạch máu trơn ở các loài động vật có vú và bởi vậy các chất này mở ra các hướng đi đầy hứa hẹn cho việc chữa trị bệnh nhồi máu cao. Mặt khác, keo được làm từ ếch có thể sử dụng như các chất dính cho việc chữa xương và các chỗ rách mô khác trên cơ thể con người.
Rất nhiều loài sa giông và kì nhông có thể phát triển trở lại các mô như cơ tim, mô thần kinh trong tuỷ sống và thậm chí là toàn bộ các bộ phận. Bởi vậy, chúng là những mẫu cần thiết giúp chúng ta hiểu được làm thế nào để khai thác tiềm năng tái tạo lại các cơ tạm ngừng hoạt động của chính chúng ta. Một vài loài ếch có thể sống sót trong những thời gian đóng băng dài mà không bị tổn hại gì đến tế bào. Chúng sẽ đem lại những bí mật quan trọng giúp chúng ta biết cách bảo vệ tốt hơn các bộ phận hiếm có cần thiết cho cách cấy ghép bộ phận.
Gấu đang đứng trên bờ tuyệt chủng do người ta giết chúng để lấy những bộ phận trên cơ thể chúng như túi mật. Mật gấu có giá cao tại các chợ đen ở Trung Quốc, Nhật, Thái Lan… Axít ursodeoxycholic được tìm thấy trong mật gấu được nhiều người sử dụng làm thuốc trị bệnh bởi họ tin rằng chất này có thể ngăn sự tích tính nóng của phụ nữ trong thời kì mang thai, làm tan các loại sỏi mật chắc, kéo dài cuộc sống của bệnh nhân bị mắc loại bệnh gan đặc biệt là bệnh xơ gan.
Gỗ thông và gỗ vân sam là 2 loại gỗ quan trọng đối với các loại dược phẩm như thuốc chữa các bệnh nghẹt mũi và thuốc Taxol chống ung thư . Các nhà nghiên cứu tin tưởng rằng còn rất nhiều thứ nữa vẫn chưa được khám phá ra và có thể bị mất đi nếu các loại cây này không tồn tại nữa. Các chất từ cây hạt trần, cây lá quạt có thể làm giảm sự sản xuất các chất liên quan đến bệnh mất trí ở người. Bởi vậy, chúng đóng vai trò trong việc chống lại căn bệnh Alzheimer. Chúng cũng sẽ có ích trong việc chữa trị bệnh động kinh và bệnh lo âu.
Các con ốc nón cũng nằm trong số những loài có nguy cơ tuyệt chủng, chất peptide (chất có sự kết hợp 2 hay nhiều axít amin tạo thành chuỗi) được tìm thấy trong ốc nón sử dụng để làm ra thuốc (có sự kết hợp ziconotide) với tác dụng mạnh hơn gấp 1000 lần so với thuốc giảm đau và đã được chứng minh trong các bài kiểm tra lâm sàng để đem lại việc giảm bớt đau đớn cho bệnh ung thư và các bệnh nhân AIDS.
Một sự kết hợp khác của ốc nón đã được chỉ ra trong mẫu của động vật để bảo vệ các tế bào não khỏi bị hủy hoại khi không đuợc cung cấp đủ máu. Nó có thể đem lại cách chữa trị tiến bộ đối với những bệnh nhân bị chấn thương ở đầu và các chứng đột quị, thậm chí có thể góp phần tìm ra cách chữa trị cho các bệnh nhân bị bệnh Parkinson và Alzheimer.
Rất nhiều trong trong số các loài cá mập hiện nay cũng đang bị tuyệt chủng, đối với một số loài như cá mập đầu búa, Cá mập trắng, Cá mập nhám đuôi dài đã giảm mất 75% trong hơn 15 năm qua. Squalamine – một chất được tách ra từ những con cá mập như cá nhám góc, đặc biệt là có rất nhiều trong gan của chúng có thể được dùng để sản xuất ra một thế hệ các thuốc kháng sinh mới cũng như các cách chữa trị chống lại sự lây nhiễm nấm.
Cũng như vậy các chất giống như muối trong một vài loài cá mập đang được nghiên cứu để tìm ra những bí mật để hiểu được về chức năng thận của người và làm thế nào các iôn hợp chất clo được vận chuyển qua các màng nhầy. Điều này sẽ giúp hiểu rõ hơn về 2 căn bệnh là xơ nang và bệnh thận có vách.
Về loài Sam, có 4 loài sam, với mỗi loài đều có 4 mắt và 6 bộ phận phát sáng khác nhau sẽ chuyển sang màu xanh thẫm khi phơi chúng ra không khí. Một vài chất peptide được tách ra từ máu chúng có thể giết chết một lượng lớn vi khuẩn. Các tế bào khác trong máu của con sam có thể cho thấy sự có mặt của các virús viêm màng não.
Các chuyên gia đều nhấn mạnh rằng các kết luận của cuốn sách này nên được đưa ra như một luận chứng để bảo vệ các loài hoang dã có nguy cơ bị tuyệt chủng, tăng cường khả năng quản lý và việc bảo vệ các hệ sinh thái.