Quá trình đô thị hóa phát triển không đồng bộ với hạ tầng kỹ thuật trong khi khả năng quản lý xây dựng và cải tạo đô thị còn nhiều yếu kém đã khiến chất lượng không khí ở các đô thị lớn bị ô nhiễm trầm trọng. Thực trạng ô nhiễm môi trường hiện nay tại các thành phố lớn đang đòi hỏi các cơ quan chức năng phải nhanh chóng có những giải pháp mạnh…
Thành phố Hồ Chí Minh, Biên Hòa (Ðồng Nai) được xem là những đô thị bị ô nhiễm bụi nặng nhất, gấp 2 – 2,5 lần tiêu chuẩn cho phép. Tại ngã tư Ðinh Tiên Hoàng – Ðiện Biên Phủ (TP. Hồ Chí Minh), nồng độ bụi lên đến xấp xỉ 1,2mg/m3. Mức độ ô nhiễm ô-xít các-bon (CO) trong không khí ở các đô thị đang có xu hướng tăng, đặc biệt ở các nút giao thông lớn, nồng độ CO thường cao hơn tiêu chuẩn cho phép (5mg/m3).
Cụ thể, tại khu vực Nhà máy VICASA (Ðồng Nai), nồng độ khí CO lên tới trên 9mg/m3; cổng Trường đại học Bách khoa nồng độ khí CO là 8mg/m3. Với nồng độ quá cao như vậy, bản thân những người có mặt tại các nút giao thông, nơi thường xuyên xảy ra tắc đường sẽ phải chịu một lượng chất độc rất lớn, gây ra hiện tượng hoa mắt, chóng mặt, nhức đầu…
Thủ đô Hà Nội được đánh giá là thành phố có môi trường khá tốt do có nhiều cây xanh và diện tích mặt nước lớn cũng đang xuất hiện ngày càng nhiều con đường mà mỗi khi có gió to là người dân hít bụi. Các đường vành đai như Minh Khai, Âu Cơ, đường nối với quốc lộ như đường Nguyễn Khoái – đê Hữu Hồng luôn có bụi mù mịt. Ði lại thường xuyên trên những con đường này, nếu không đeo khẩu trang, thật khó mà chịu đựng nổi.
Môi trường không khí ở Hà Nội đang bị ô nhiễm cục bộ, chủ yếu ở các nút giao thông trọng điểm, các trục đường giao thông chính và các khu công nghiệp. Tại một số “điểm nóng” của Hà Nội, nồng độ bụi trong không khí luôn vượt tiêu chuẩn cho phép nhiều lần; khu vực ngã tư Kim Liên – Giải Phóng đang thi công cầu vượt, lượng bụi lên đến 0,5mg/m3 (trong khi tiêu chuẩn cho phép là 0,2mg/m3). Trong các quận, huyện ở Hà Nội, Gia Lâm là nơi có chất lượng không khí kém nhất, tiếp đến là Thanh Trì, Ðống Ða, Tây Hồ, Hai Bà Trưng, Từ Liêm, Ba Ðình, Hoàn Kiếm.
Lưu lượng xe tham gia giao thông đang tăng nhanh cũng là một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm không khí nghiêm trọng. Trong đó, phát thải xe máy là nguyên nhân chính. Chỉ tính riêng Thủ đô Hà Nội đã có xấp xỉ 2 triệu xe máy, 150.000 xe ô-tô các loại thường xuyên hoạt động. Những chiếc xe máy, hiện chiếm hơn 87% tổng lưu lượng xe hoạt động trong nội thành, là đối tượng chính gây gia tăng ô nhiễm không khí cho thành phố thời gian gần đây. Các loại khí độc hại có trong khí thải xe máy thường thấy là CO, NOx, SOx và HC (Hy-đrô các-bon thơm – một loại chất gây ung thư).
Khảo sát của Sở Tài nguyên, Môi trường và Nhà đất Hà Nội cũng cho thấy, 70% số xe máy đang lưu hành trên đường phố Hà Nội không đạt tiêu chuẩn cho phép về khí thải, làm gia tăng tình trạng ô nhiễm không khí tại thành phố. Số xe máy nói trên chủ yếu là xe cũ, đã chạy từ 1,5 vạn km trở lên và chủ xe không bảo dưỡng định kỳ. Số lượng ô-tô cũ với chất lượng kỹ thuật lạc hậu vẫn đang sử dụng nhiều.
Trong số 1.000 xe buýt của Thủ đô chỉ có khoảng 10% tuân thủ đầy đủ tiêu chuẩn EURO2 (tiêu chuẩn châu Âu về lượng khí thải), bao gồm cả cách lái xe, bảo dưỡng sao cho giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Vào giờ cao điểm, nồng độ bụi mịn trong không khí đều vượt tiêu chuẩn cho phép từ 1,3 – 2,3 lần; nồng độ bụi trong các ngày mưa giảm tới 45 – 50%. Tình trạng ô nhiễm chắc chắn sẽ gây ảnh hưởng xấu tới sức khỏe người dân Hà Nội, đặc biệt với những người tiếp xúc thường xuyên hoặc cư trú tại khu vực ô nhiễm. Một số nghiên cứu về tỷ lệ bệnh tật, nhất là các loại bệnh về hô hấp trong vài năm gần đây cũng đã xác nhận điều này.
Trong khi tiêu chuẩn quy hoạch trên thế giới thì đường phải chiếm 30 – 50% diện tích chung của đô thị. Tuy nhiên, ở Việt Nam con số này mới chiếm khoảng 3,5 – 4%.
Theo thống kê chưa đầy đủ, trong các giờ cao điểm tại Hà Nội, hệ số sử dụng lòng đường đã vượt quá mức cho phép 3 – 4 lần. Khi xảy ra tắc nghẽn, luồng xe thường chỉ đạt vận tốc dưới 5 km/h, thậm chí bằng 0 trong nhiều giờ liên tục. Trong tình trạng này, xe máy và ô-tô con sẽ thải ra một lượng khí CO nhiều gấp 5 lần; xe buýt, xe tải nhiều gấp 3,6 lần so với khi chạy ở tốc độ 30 km/h.
Theo tính toán của Viện Y tế lao động, do ô nhiễm không khí, Hà Nội bị tổn thất mỗi ngày một tỷ đồng. Mức thiệt hại về kinh tế do khí thải xe máy được các nhà nghiên cứu đưa ra là hơn 50 triệu USD/ năm tại TP Hồ Chí Minh và hơn 20 triệu USD/năm tại Hà Nội. Ðáng ngại là mức thiệt hại ngày càng tăng, chiếm từ 0,3 – 0,6% GDP của thành phố, nguyên nhân chính là do lượng phát thải từ mô-tô, xe máy hiện đang bị thả nổi, không kiểm soát được. Lượng xe máy không ngừng tăng, năm 2006 đã lên tới con số 18 triệu xe.
Các quốc gia như Ấn Ðộ, Thái-lan… là những nước có nhiều xe mô-tô, xe gắn máy đều thực hiện việc kiểm soát phát thải xe máy. Mặc dù mỗi quốc gia có những biện pháp khác nhau, nhưng theo Hội đồng quốc tế về giao thông sạch (ICCT) thì các nước đều có những hình thức chung sau. Thứ nhất, kiểm soát công nghệ sản xuất mô-tô, xe máy, áp dụng tiêu chuẩn khí thải Euro 2-4. Thứ hai, sử dụng nhiên liệu sạch, có động thái kiên quyết tách các chất độc hại như chì, lưu huỳnh… ra khỏi xăng. Thứ ba, phải quy hoạch giao thông hợp lý, giảm thiểu tắc nghẽn giao thông, vì khi các phương tiện bị tắc nghẽn, nồng độ khí thải độc hại sẽ tăng đột biến. Thứ tư, có chế độ bảo dưỡng thích hợp với xe máy. Thứ năm, có lộ trình loại bỏ xe máy cũ.
Tuy nhiên, khó khăn khi thực hiện kiểm soát khí thải xe máy tại Việt Nam còn do lượng xe quá lớn, đòi hỏi một lực lượng thiết bị và nhân lực không nhỏ và cùng đó là thói quen sử dụng xe máy tự do của người dân, tất cả đang khiến các nhà quản lý phải nghiên cứu, cân nhắc kỹ.
Theo các nhà môi trường, phát triển giao thông công cộng và hạn chế sử dụng các phương tiện cá nhân với mục đích giảm thiểu lượng xe cơ giới lưu thông trên đường là giải pháp cơ bản giảm thiểu ô nhiễm, bảo vệ môi trường.
Ðể giảm thiểu ô nhiễm không khí, thành phố cần sớm thực hiện giải pháp cấp bách là tổ chức lại hệ thống giao thông theo hướng thân thiện với môi trường, mở rộng và xây dựng mới các đường giao thông đô thị để giảm áp lực xe cộ và các tuyến đường vành đai nhằm giảm lưu lượng xe vận chuyển liên tỉnh và quốc gia đi ngang qua khu vực nội thành.
Bên cạnh đó, trong khu vực nội thành nên có một số đường hoặc khu dành riêng cho xe đạp và người đi bộ để giảm ô nhiễm không khí và tiếng ồn, đặc biệt là những nơi có nhiều trường học, bệnh viện, nơi nghỉ ngơi, giải trí của người già và trẻ em cũng như vùng danh lam thắng cảnh.