Nhiều dự án luyện, cán thép lớn đang lần lượt xuất hiện, hứa hẹn đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu thép lớn. Đồng thời, điều này cũng sẽ làm cho Việt Nam có nguy cơ biến thành nơi tập trung “rác” công nghệ và chất thải gây ô nhiễm môi trường.
Những dự án giá rẻ
Dự án luyện cán thép của tập đoàn Tycoons (Đài Loan) ở Dung Quất, được cấp giấy phép đầu tư vào cuối năm ngoái, có tổng công suất năm triệu tấn thép thỏi và kinh phí đầu tư 1,03 tỉ đô la Mỹ tính cho cả hai giai đoạn.
Đây là dự án có suất đầu tư khá thấp, chỉ khoảng 200 đô la Mỹ/tấn thép thành phẩm. Một nhà máy thép khác, vừa được Công ty Vạn Lợi và Tổng công ty Khoáng sản và Thương mại Hà Tĩnh khởi công xây dựng ở khu kinh tế Vũng Áng vào trung tuần tháng sáu qua cũng có suất đầu tư thấp như thế – 212 đô la Mỹ/tấn.
Trong khi đó, cũng với công suất năm triệu tấn, nhưng hai dự án do tập đoàn Tata (Ấn Độ) và Posco (Hàn Quốc) dự định đầu tư ở Hà Tĩnh và Khánh Hòa lại có suất đầu tư cao hơn gấp 4-5 lần. Nguyên nhân tạo nên sự khác biệt về suất đầu tư chính là ở công nghệ, thiết bị các nhà đầu tư sẽ sử dụng và đây là điều mà Việt
Cả hai dự án của Vạn Lợi và Tycoons đều sử dụng công nghệ và dây chuyền thiết bị đồng bộ của Trung Quốc, trong đó Vạn Lợi sẽ sử dụng loại lò cao có dung tích 230 mét khối và lò luyện thép 40 tấn/mẻ.
Riêng Tycoons, mặc dù không công bố rộng rãi loại lò cao nào sẽ được lắp đặt cho dự án của mình, nhưng theo ông Phạm Chí Cường, Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam, lò cao công ty này sử dụng cho dự án cũng chỉ có dung tích 550 mét khối. Trong khi đó, cả Posco và Tata đều chọn lò cao dung tích từ 2.000 mét khối trở lên, là loại đang được dùng phổ biến trên thế giới hiện nay.
Đầu tư những thiết bị… bỏ đi!
Những dự án luyện cán thép với suất đầu tư ban đầu thấp như thế sẽ không giúp ngành thép cạnh tranh tốt hơn trong tương lai. Trái lại, điều này còn đặt Việt Nam trước nguy cơ trở thành bãi rác công nghệ lò cao của các nước, đồng thời gây ra những tác hại lớn về môi trường và có thể khiến cho tình hình thiếu hụt năng lượng trở nên trầm trọng hơn.
Các dự án thép với lò cao dung tích dưới 1.000 mét khối và lò luyện thép nhỏ, tuy chi phí đầu tư ban đầu thấp nhưng không có nghĩa là giá thành thép sản xuất sẽ rẻ hơn.
Theo các chuyên gia của Hiệp hội Thép Việt Nam, mức tiêu hao than cốc cho một tấn gang đối với loại lò cao mà Vạn Lợi, Tycoons định đưa vào Việt Nam nhiều gấp đôi so với sử dụng loại lò dung tích 3.000 mét khối trở lên. Đồng thời, lò cao và lò luyện thép (đi từ gang) loại nhỏ cũng tiêu tốn năng lượng, nước nhiều hơn hẳn.
Ngoài tiêu tốn nhiều năng lượng, nguyên nhân khiến Chính phủ Trung Quốc đi đến quyết định cấm sử dụng lò cao, lò luyện thép nhỏ là do lượng chất thải và khí gây hiệu ứng nhà kính quá lớn, nhưng khả năng xử lý thì không khả thi về kinh tế. Ông Cường nói: “Chỉ những dự án sử dụng loại lò cao 3.000 mét khối trở lên thì việc đầu tư xử lý chất thải mới có hiệu quả”.
Trong khi Trung Quốc đang muốn loại bỏ các lò cao dưới 300 mét khối và cấm sử dụng lò dưới 1.000 mét khối, thì Việt Nam lại dễ dàng bật đèn xanh cho loại thiết bị, công nghệ lạc hậu này. Trong những năm tới rất có khả năng nhiều dây chuyền luyện gang, thép bị loại bỏ ở Trung Quốc sẽ được đưa về lắp đặt ở Việt
Trong tình hình thiếu điện như hiện nay, việc chấp nhận dây chuyền sản xuất gang, thép lạc hậu, tiêu thụ nhiều điện, than… sẽ làm giảm hiệu quả sử dụng năng lượng của nền kinh tế, đẩy Việt
Ngoài ra, việc gần đây xuất hiện một loạt dự án thép quy mô lớn cũng có thể không phải do tiềm năng thị trường, môi trường đầu tư hấp dẫn, mà có thể vì Việt Nam dễ tiếp nhận các dự án phát sinh nhiều khí thải và các chất thải nguy hại cho môi trường.
Có nên theo đuổi công nghệ lò cao?
Lò cao hiện vẫn là công nghệ luyện thép phổ biến nhất trên thế giới, nhưng nó sẽ sớm đi vào dĩ vãng sau khi công nghệ Finex do tập đoàn Posco phát triển ra đời.
Cuối tháng năm vừa qua, Posco đã khánh thành nhà máy luyện thép sử dụng công nghệ Finex đầu tiên trên thế giới, với công suất thiết kế 1,5 triệu tấn/năm và có ưu điểm là chi phí sản xuất thấp hơn 15% đồng thời lượng khí thải phát ra giảm mạnh so với công nghệ lò cao.
Việc xuất hiện những dự án luyện cán thép với suất đầu tư ban đầu thấp đang đặt Việt
Hiện nay, 60% sản lượng thép thế giới được sản xuất từ quặng sắt theo công nghệ lò cao (còn lại là sản xuất từ thép vụn). Nhược điểm cơ bản của công nghệ này là phải sử dụng quặng sắt nguyên khối và than cốc, nên cần tới ba công đoạn để sản xuất ra thép.
Công đoạn kết tụ quặng sắt và luyện than cốc tạo ra nhiều khí thải, chất thải và làm tăng chi phí đầu tư thiết bị. Trong khi đó, công nghệ Finex sử dụng trực tiếp quặng sắt vụn và than chưa qua chế biến, nhờ đó giảm chi phí sản xuất và quan trọng hơn là giảm thiểu chất thải gây ô nhiễm môi trường.
Theo kế hoạch, Posco sẽ thay thế các nhà máy luyện thép công nghệ lò cao của mình ở Pohang, với tổng công suất trên 20 triệu tấn, bằng công nghệ mới từ năm 2010. Hiện nay, tập đoàn này đã được cấp giấy phép đầu tư 1,2 tỉ đô la Mỹ để xây dựng nhà máy thép công suất ba triệu tấn/năm ở Bà Rịa – Vũng Tàu.
Đồng thời, Posco còn hợp tác với Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy (Vinashin) chuẩn bị đầu tư năm tỉ đô la Mỹ xây dựng thêm nhà máy luyện thép công suất năm triệu tấn/năm, dự kiến đặt ở Khánh Hoà.
Rất có thể một số dây chuyền luyện thép công nghệ lò cao ở
Kinh nghiệm Trung Quốc Trong 10 năm qua, tình trạng phát triển ồ ạt các lò luyện thép nhỏ đã đưa Trung Quốc trở thành nước sản xuất thép lớn nhất thế giới, nhưng nó cũng làm cho ô nhiễm môi trường trở nên nghiêm trọng hơn. Ông Phạm Chí Cường, Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam, cho biết từ năm 2005 Trung Quốc đã ban hành chính sách phát triển công nghiệp thép, theo đó các loại lò cao có dung tích dưới 1.000 mét khối và lò luyện thép dưới 120 tấn/mẻ không được phép sử dụng cho các dự án ở sâu trong nội địa. Còn ở vùng ven biển, chỉ lò cao dung tích từ 3.000 mét khối và lò luyện thép 200 tấn/mẻ trở lên mới được chấp nhận. Ngoài ra, nước này còn có kế hoạch bỏ hết các loại lò dung tích dưới 300 mét khối vào năm 2010. Tuy nhiên, kế hoạch này gặp khó khăn, do đụng chạm đến nguồn thu ngân sách và việc làm cho người lao động ở địa phương. |